I.
TÊN GỌI DI TÍCH:
CHIÊU ỨNG TỪ
1.
Di tích có một tên gọi là chữ
Hán, không có tên gọi khác;
2.
Nguồn gốc của việc
đặt tên cho di tích: Để thờ vong linh của
những thương buôn người Hoa gốc Hải
Nam gặp nạn
chết trên đường từ Việt Nam trở về đảo Hải
Nam
Trung Quốc.
3.
Sự thay đổi tên gọi của
các di tích qua các thời kỳ lịch sử: Không thay
đổi tên gọi.
II.
ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỔ VÀ ĐƯỜNG
ĐI ĐẾN DI TÍCH:
1.
Ghi rơ địa chỉ của di
tích : 22 đường Trần Phú, Tổ 1, Khóm Cầu
Đá, Phường Vĩnh Nguyên, Thành Phố Nha Trang (
trước năm 1933 di tích được xây dựng
ở đảo Trí Nguyên, do chiến tranh nên năm 1933
di tích được bà con đồng hương Hải
Nam dời về địa chỉ trên để tiện
việc cúng bái).
2.
Đặc điểm địa lư
của di tích: Mặt tiền
đường Trần Phú
3.
Các hướng Đông: Giáp
đường Trần Phú, Tây : Giáp
nhà dân, Nam
: Giáp nhà dân, Bắc : Giáp nhà dân.
4.
Các
hướng Đông: Giáp Cảng Nha Trang, Tây
: Giáp núi, Nam
: Giáp Đồn Biên pḥng, Bắc: Giáp Viện Hải
Dương học.
5.
Có bao nhiêu đường để
đi đến di tích: Lấy tâm điểm thành phố
Nha Trang đi dọc theo đường
Trần Phú đến Cảng Nha Trang nh́n về phía tay
phải có biển MIẾU CHIÊU ỨNG TỪ bằng
chữ Hán. Đi bằng phương tiện ô tô, xe gắn máy là thuận lợi nhất, chỉ
có một con đường duy nhất đến di
tích là đường bộ.
III.
DỰ KIỆN – NHÂN VẬT LỊCH SỬ VÀ THUỘC
TÍNH CỦA DI TÍCH:
1.
Không rơ năm xây dựng và chỉ biết
là xây dựng nay đă hơn 100 năm từ thời
vua Tự Đức do bà con người Hoa Hải Nam
đóng góp tiền xây dựng lần xây dựng đầu
tiên tại địa điểm làng Băy Miễu
Phường Vĩnh Nguyên sau do chiến tranh nên chuyển
sang đất liền là địa điểm hiện
nay.
2.
Các năm trùng tu : Sau khi chuyển từ
đảo Bảy Miễu vào đất liền Miếu
vẫn giữ nguyên kiến trúc cũ, chỉ thay mái
ngói, các hoa văn chạm khắc theo kiến trúc
văn hóa Trung Ḥa vẫn c̣n giữ nguyên vẹn.
3.
Các nhân vật được thờ
trong di tích: Bàn thờ giữa chánh điện Thờ
bài vị tạm dịch là “ Thanh Chiêu Ứng anh liệt
108 người chi thần vị – Sơn thủy nhị
lọai nam nữ ngũ tính cô hồn chi thần” Nguyên
gốc Miếu Chiêu Ứng Từ lần đầu
tiên được xây dựng trên đất kinh thành
Huế vào năm 1887 đường Chi Lăng khu Gia Hội,
thành phố Huế c̣n gọi là Miếu Tàu có tên gọi
là Chiêu Ứng Từ. Miếu được xây dựng
bởi bang hội người Hoa gốc Hải Nam
để thờ cúng vong linh 108 vị thương buôn
người Hoa gốc Hải Nam bị giết vứt
xác trên biển. Đây là miếu của người
Hoa đầu tiên trên đất Huế, ghi dấu một
sự kiện lịch sử và pháp chế đời
Tự Đức. Những nơi khác có người Hải
Nam cư trú, nhiều ngôi miếu tương tự cũng
được xây dựng như: Đà Nẵng, Hội
An, Khánh Ḥa (có 02 ngôi Miếu - thị trấn Vạn Giă
và Nha Trang), Sài G̣n, Tân Gia Ba (Singapore), Thái Lan nhưng bề
thế hơn cả là ngôi miếu ở thị trấn
Hải Hậu, huyện Văn Xương, đảo
Hải Nam nơi nguyên quán của những người
đă khuất. Miếu Chiêu Ứng Từ Đà Nẵng
hiện c̣n lưu giữ lá cờ vua Tự Đức
ban cho, trên có thêu hàng chữ : “SẮC PHONG CHIÊU ỨNG
OANH LIỆT, PHÓ PHONG ĐỨC BẢO TRUNG HƯNG”
4.
Sự tích nổi bật của
di tích:
Vụ án: Mùa hạ năm Tự
Đức thứ 4 ( 1851) Chưởng vệ Phan Xích,
cùng Lang trung Tôn Thất Thiều nhận lệnh quản
suất chiến thuyền mang tên Bằng Đ̣an đi
tuần tiểu vùng duyên hải các tỉnh Quảng
Nam, Quảng Ngăi và B́nh Định. Ngày 6 tháng 7 ra cửa
Thuận An.
Theo tớ tâu ghi ngày 25
tháng 7 của Phan Xích và Tôn Thất Thiều dâng về
triều đ́nh th́ ngày 16 tháng 7 ở ng̣ai khơi đảo
Thanh Châu thuộc tỉnh Quảng Ngăi họ phát hiện
ba thuyền lạ của Trung Quốc, chiếc Bằng
Đ̣an lập tức nhổ neo chạy ṿng sang phía bên
kia đảo để quan sát kỹ hơn. T́nh nghi là
thuyền của hải tặc nên liến bắn ngay
vài phát súng thần công. Bị tấn công bất ngờ,
ba chiếc thuyền lạ bèn giương buồm bỏ
chạy. Ba ngày sau ( ngày 19 tháng 7 ) chiếc
Bằng Đoàn bắt kịp chúng. Đôi bên giao chiến
ác liệt, sau đó một chiếc trúng đạn
đại bác vỡ tan, chiếc thứ hai bỏ chạy
về phía đông, c̣n chiếc thứ ba trong t́nh trạng
què quặt trôi bềnh bồng trên sóng. Một toán quân
do Hiệp quản Dương Cử chỉ huy xông lên
thuyền địch. Tuy đa số người
đă chết hoặc bị thương nặng,
nhưng khoảng một chục thuỷ thủ
đoàn c̣n lại vẫn ngoan cố kháng cự nên cuối
cùng họ bị giết hoặc nhảy xuống biển
trốn thoát. Chiếc thuyền sau đó được
kéo về đảo Chiêm Dự tức Cù Lao Chàm. Bản
báo cáo c̣n thêm rằng mặc dù đụng độ
địch nhưng chiếc Bằng Đoàn chỉ
hư hại nhẹ, có thể sửa chữa lại
được ngay. Ngoài ra th́ không tổn thất nhân mạng
nào. Phan Xích và Tôn Thất Thiều sau đó ra lệnh
cho đốt thuyền địch .
Tinh thần anh em quân sỹ dâng cao, hai ông xin triều
đ́nh xét thưởng công cho tất cả.
Vua Tự Đức xem
xong tờ tŕnh tấu liền sinh nghi v́ đánh nhau với
phỉ mà lính tráng chẳng ai bị thương tích ǵ,
c̣n phía bên kia th́ bị giết sạch không một
người bị bắt làm tù binh. Vua liền giao cho
một quan bên bộ Binh đi tra xét. Viên ngoại Nguyễn
Văn Tân điều tra xong trở về xác nhận lời
tâu của Phan Xích và Tôn Thất Thiều là đúng sự
thật. Trong tờ tấu về triều, Bên Bộ
Binh kết luận rằng v́ chiếc thuyền sơn
màu đen nên không thể là thuyền buôn được,
và dựa theo lời kể của các quan cấp dưới
cùng sỹ tốt th́ những người trên thuyền
đó toàn là quân phỉ. Bộ này xác nhận tất cả
đều bị giết sạch nhưng không có chứng
tích nào cho thấy bên kia có kháng cự, rơ ràng là nói ngoa.
Đồng thời cũng
trong thời gian ấy, một tên trong số thủy
thủ của chiếc Bằng Đ̣an nhà ở gần
phố Gia Hội ( khu phố người Hoa ở Huế
), nhân ăn nhậu không đủ tiền bèn cầm
chiếc nhẫn cho chủ quán. Chẳng may cho hắn,
vợ của một người mất tích nhận
ra ( v́ mặt nhẫn có khắc tên của
chồng bà ), bèn đánh trống kêu oan. Vua Tự Đức
ra tra xét, tên ấy phải nhận tôi và khai hết sự
t́nh.
Viên đội trưởng
trong vệ Tuyền phong là Trần Hựu cũng thú nhận
rằng hôm 17 tháng sáu năm 1851 thuyền quan đang
đậu ở cửa biển Thị Nại
được tin có ba chiềc thuyền lạ ng̣ai
khơi đảo Thanh Dữ, chưởng vệ Phan
Xích và Lang trung Tôn Thất Thiều liền ra lệnh nhổ
neo, chạy ṿng ra phía sau đảo. Đến đây
họ mới nhận biết đây là ba thuyền của
Trung Quốc. Bị bắn ba chiếc bỏ chạy về
phái đông. Thuyền quan rượt theo và tiếp tục
bắn thần công về phía chúng nhưng chúng chẳng
hề đáp lại . Đến
ngày 18 tháng 7, hai chiếc thóat mất dạng, duy chiếc
thứ ba v́ bị hư hại nặng phải hạ
buồm đứng lại chịu trận. Cập lại
gần, Phan Xích ra lệnh cho tất cả những
người bên thuyền của Trung Quốc sang tŕnh
diện. Họ tuân hành lệnh. Ba mươi người
sang tŕnh thẻ, nói là nhà buôn ở Thừa Thiên xin về
thăm quê Trung Quốc và được cấp phép, lại
có biết Lang trung Tôn Thất Thiều và Suất đội
Nguyễn Tỉ; những người c̣n lại đều
buôn bán ở Quảng Ngăi. Họ c̣n thêm rằng đang
trên đường trở về Trung Quốc, và thuyền
họ là thuyền buôn, không có chiếc nào là hải tặc.
Mặc dù đă khai như thế nhưng Phan Xích lại
sai Hiệp quản Dương Cử dẫn một
tóan quân sang khám xét chiếc tàu lạ. Họ thấy bên
đó chỉ ṭan là hàng hóa mà không có vũ khí nào cả.
Tuy vậy Dương Củ vẫn được lệnh
phải trói tất cả những người bên thuyền
ấy lại, gồm có 75 người Hoa. Qua đêm thứ
hai, có lệnh chém đầu hết rồi quăng xác
xuống biển. Phần 33 người Hoa khác đă
sang trước bên chiếc Bằng Đ̣an cũng chịu
chung số phận. Tổng số có đến 108 bị
chém chết rồi đem quăng mất xác. Ng̣ai ra sau
đó c̣n t́m thấy một người khác trốn
dưới đáy khoang. Bị phát giác, người này
chạy thóat lên boong, phóng xuống biển mất tích.
Ṭan bộ hàng hóa trên chiếc tàu Trung Quốc được
chuyển sang chiếc Bằng Đ̣an rồi chiếc
thuyền buôn được sơn lại màu đen
để trông như tàu hải tặc.
Ngày 7 tháng 8 năm 1851, Bô
Binh tŕnh sớ khác lên triều đ́nh chờ vua phán.
Vua Tự Đức duyệt
xong liền phê như sau:
“Mới đây Phan Xích và
Tôn Thất Thiều có dâng sớ báo việc bắt giữ
tàu hải tặc Trung Hoa. Qua đó quả nhân nhận
thấy chiếc thuyền này bị giữ mà không có thỷ
thủ đ̣an bị bắt làm tù binh và không có ǵ chứng
minh rằng thuyền này có sai phạm. Việc này khiến
quả nhân quan tâm và động ḷng thương cảm.
Quả nhân đă lệnh cho Bộ Binh điều tra vụ
việc nhưng khi đọc tờ tŕnh đầu
tiên, Bộ này cho biết tất cả đều bị
giết sạch v́ chống cự ,
quả nhân lại càng sinh nghi thêm. Quả nhân ngần
ngại chưa phê chuẩn ngay được v́ lẽ
đó. “ Thế mà kết quả tờ
tŕnh mới nhất của Bộ Binh cho thấy Phan
Xích và đồng bọn đă ngụy tạo công lao
để đ̣i được khen thưởng. Chúng
là lũ giảo quyệt, tham lam và độc ác, không
có chút nhân tính. Tội chúng là trọng tội! Ôi chao nghĩ
đến mà quả nhân đă run lên v́ sợ và quả
nhân cảm thấy đau đớn khi diễn đạt
sự độc ác như thế!
“ Cứ tiến
hành điều tra. Đưa những kẻ phạm tội
ra trừng trị theo pháp triều.
“Trẫm ra lệnh tước
hết quyền của Phan Xích và Tôn Thất Thiều,
lập tức bắt giam và giao cho Pháp ti (
tức Tam Pháp ty ): ṭa tối cao chuyên xử những
vụ đại h́nh ) tra xét. Về phần quan viên bên
Bộ Binh, trẫm giao phó trách nhiệm điều tra
mà khộng t́m ra lẽ phải. Nay tạm ngưng công
tác để thẩm xét…’’
Sau khi tra xét từng
trường hợp, ngày 18 tháng 11 năm 1851, Pháp ti kết
thúc phiên xử và tŕnh bản án lên vua Tự Đức
xin phê chuẩn. Vua đọc xong liền phê ngay. Bản
án như sau:
“Lang trung Tôn Thất Thiều
và Chưởng vệ Phạm Xích, đồng phạm
chủ mưu vụ thảm sát bị xử lăng
tŕ đến chết. Riêng Tôn Thất Thiều bị
xóa tên ra khỏi gia đ́nh ḥang tộc, nay phải lấy
theo họ mẹ và cải tên thành Đặng Thiều.
Vợ con Thiều bị đày vào sống ở Nam
kỳ và không được sống gần nhau. H́nh phạt
tương tự áp dụng cho vợ con của Phan
Xích.
“Hiệp quản
Dương Cử, tội ṭng phạm, bị xử
ngay lập tức và đầu bị đem bêu ng̣ai chợ
làm gương.
“Các hộ vệ như Lê
Kỳ, Tôn Thất Cầm, Tôn Thất Giá, Tôn Thất
Hành, tội đốc quân th́ hành chém đầu các nạn
nhân, bị án chém đầu ngay lập
tức. Riêng ba người ḍng Tôn Thất bị cải
tên theo họ mẹ thành Nguyễn Cầm, Lê Giá, Nguyễn
Hành.
“Hộ vệ Tôn Thất Ân v́ chống lệnh giết người
nên được miễn tố và được giữ
nguyên chức vụ.
“ Các Suất đội
như Hồ Tá Hổ, Dương Đức Bửu,
và Nguyễn Tỉ, tuy không trực tiếp liên quan
đến thảm sát nhưng đă không hề cưỡng
lệnh, nên bị phạt mỗi người 100
trượng, phải lưu đày xa quê 3000lư. Kết
quả, Hồ Tá Hổ phải vào sống ở Biên
Ḥa, c̣n Dương Đức Bửu ở Gia Định,
c̣n Nguyễn Tỉ th́ về Vĩnh Long.
“Hộ vệ Tôn Thất
Chẩn, trong thời gian bị giam giữ đă cắt
lưỡi nhưng không chết, được
đưa đi điều trị v́ ra máu nhiều. V́
không trực tiếp chỉ huy nên được gia giảm
tội bằng cách bi lọai ra khỏi hộ vệ
đ̣an về nhà ngồi chơi xơi nước.
“Hai mươi đội
trưởng cùng khỏang 70 lính trên tàu Bằng Đ̣an
bị phạt đ̣n 100 trượng và bị cất
chức. Riêng Đội trưởng Trần Văn Hựu
v́ cưỡng lệnh nên được tha bổng.
“Ba thượng quan Bộ
Binh là Trương Đăng Quế, Trương Quốc
Dũng và Nguyễn Đ́nh Tân, có tội làm tờ tŕnh
nhiều sai sót, bị treo lương một năm.
“Những kẻ trọng
tội bị tịch thu gia sản và giao tất cả
cho Phan Kỵ Kư, bang trưởng bang hội đồng
hương Hải Nam để chuyển đến
gia đ́nh nạn nhân hầu xóa dịu nỗi mất
mát của họ, đồng thời ḥan trả lại
tất cả hàng hóa lấy từ chiếc thuyền
buôn.
“Cuối cùng cần mượn
một số tiền từ phủ Thừa Thiên để
lập trai đàn ở cữa sông tại Thuận An hầu
phục hồi danh dự cho các vong linh. Các tội phạm
bị tử h́nh tức khắc sẽ được
thi hành trong ngày cùng ngày tế lễ này.
“Bản án
này được nội các phê và vua Tự Đức
chuẩn thuận ngày 7 tháng 12 năm 1851.”
IV.
CÁC NHÂN VẬT TRONG DI TÍCH:
Các Hiện
Vật Có Trong Di Tích
Số tt
|
TÊN GỌI HIỆN VẬT
|
CHẤT LIỆU
( vải, gỗ, giấy,
da)
|
SỐ LƯỢNG
|
KÍCH THƯỚC
( dài, rộng, chu vi )
|
Niên đại
|
1
|
Chánh điện thờ Bài vị:
Thanh chiêu ứng oanh liệt 108 người chi thần
vi – Sơn thỷ nhị lọai nam nữ ngũ tính
cô hồn chi thần vị
|
Bằng vải nhũ kim tuyến
|
01
|
|
Không rơ năm
|
2
|
Bên trái: Thờ ông Phước
Đức chánh thần
|
Bằng vải nhũ kim tuyến
|
01
|
|
Không rơ năm
|
3
|
Bên phải: Thờ Ông
Tài Bạch tinh
|
Bằng vải nhũ kim tuyến
|
01
|
|
Không rơ năm
|
4
|
Song chỉ
|
Bằng gỗ
|
16 cái
|
cao 2 mét
|
Không rơ năm
|
V.
LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VÀ CÁC HỌAT
ĐỘNG VĂN HÓA DIỄN RA TRONG DI TÍCH:
1.
Thời gian mở hội: 01 ngày Kéo
dài trong mấy ngày : Từ 6giờ
sáng đến 12giờ trưa cùng ngày.
2.
Các nghi lễ diễn ra như thế
nào: Y áo khai lễ cúng tế theo phong tục tập quán
Trung Hoa và lễ vật để cúng tế như: Hoa
quả, Heo quay, bánh hỏi, thịt gà, cơm gà, canh bún
tàu; theo tập quán của Hải Nam, trong cúng tế có
bài chúc; khi tiến hành lễ tế vị Trưởng
ban quản lư làm chánh tế đọc chúc văn, cử
02 người trong Ban quản lư làm bồi tế và
đội sớ, các thành viên trong Ban quản lư đồng
dâng hương cùng chánh tế cầu nguyện cho Quốc
thái Dân an;
3.
Có tṛ chơi dân gian nào trong lễ hội
không: Không tổ chức các tṛ chơi dân gian Có hát bộ
không: Không tổ chức hát bộ;
4.
Sau khi cúng tế mời bà con hào lăo
địa phương và đồng hương Hải
Nam
đến dâng hương và dự tiệc.
YÊU CẦU
VỀ NỘI DUNG LỜI KỂ KHẢO TẢ DI TÍCH
a.
Di tích khảo cổ: Không
b.
Di tích lịch sử: Không
c.
Di tích kiến trúc nghệ thuật:
Từ cổng chính đi
vào có treo tấm biển khắc chữ CHIÊU ỨNG TỪ
bằng chữ Hán tiếp theo là một sân rộng tiếp
đến là tiền sảnh chính giữa có treo tấm
biển ghi: NGỌAI NGỰ MAN BANG ( bằng chữ Hán
) và : ĐỨC BỊ SANG TÂN ( Dân Quốc năm 19 ) và
HỮU CẦU TẤT ỨNG ( năm Canh Dần ) và
đi tiếp vào gian giữa có biển để chữ
VẠN THẾ VĨNH LẠI ( Canh Ngọ ) bên phải
có bức liễn đề câu ÂM ĐÀN HẢI ĐẢO
( Tuyên Thống năm thứ 3 ) TÙNG THỨ LINH QUAN (
Quan Tự năm 19 ), bức liễn bên trái đề
câu : ANH PHONG THƯỢNG TẠI ( Quan Tự năm thứ
18) DĨ DŨNG PHÙ NHÂN ( Quan Tự năm thứ 6 ). Về
kiến trúc gỗ được chạm khắc rất
tinh vi và mang phong cách nghệ thuật cổ của
Trung Hoa.
d.
Danh thắng: Không
Sưu tập
và biên soạn
Hàng
Quốc Định 韓国定
Nha Trang, Việt
Nam,
2011
|