|
Bốn
chữ QUYỀN HUYNH THẾ PHỤ được dùng
tràn lan từ bao đời nay và thường bị lắm
“HUYNH” lạm hiểu là “anh có quyền thay cha” trong
trường hợp cha vắng mặt dài hạn hay vĩnh
viễn.
Sở dĩ cụm
từ nọ bị hiểu lầm nghiêm trọng và dai
dẳng như vậy là do sực tác động lâu
dài. khó lay chuyển nổi của tâm lư thông thường.
Nói cho thẳng thắn, việc hiểu lầm bấy
lâu thường xuất phát từ thói tham lam, vị kỷ.
Bất cứ ở
gia đ́nh nào, đứa “Huynh” cũng là kết quả
mong đợi vào giai đoạn cha mẹ hăy c̣n
đang say mùi yêu đương, cái xấu cái dở của
nhau đang c̣n tiềm ẩn, chưa đủ nghiêm trọng
nên chưa kịp phát hiện, mà dẫu có phát hiện
th́ cũng dễ dàng thông qua.
Mặc khác.
trong giai đoạn “tập làm cha mẹ” ấy,
người ta vẫn c̣n sót lại tâm lư trẻ con của
bản thân, coi con là thứ “búp bê sống”, mặc t́nh
trang trí bằng quần áo, đồ chơi... để
thỏa măn thứ “tṛ chơi” cuối cùng của đời
họ. Khi mua sắm như thế người ta “hạ
gục” tính tiết kiệm bằng ư nghĩ “đứa
lớn dùng xong để dành cho đứa nhỏ”.
Vô h́nh trung, tâm lư gia trưởng đă có dịp nẩy
mầm, tạo ra sự cố ư hiểu sai cụm từ
trên.
Những đứa
em ra đời sau đó không được hưởng
“phép lợi thế: như anh chúng. Đấy là
chưa kể chúng c̣n bị căm ghét khi “phá hoại”
thành quả dành dụm, cản trở sự phát triển
kinh tế gia đ́nh do chúng đau ốm hay gặp tai
nạn. Lắm đứa c̣n gặp phải cha
hay mẹ mắc chứng tâm thần “sadism”, mỗi khi
quan sát, theo dơi con, chỉ chăm chăm đăi lọc
lấy cái xấu, hắt bỏ các cái tốt. Sự
thiên vị đó “mưa dầm thấm đất” tạo
ra thành kiến cứng nhắc, đè bẹp rồi
làm thui chột ư thức công bằng.
Khi người
cha qua đời, người mẹ mất
phương hướng cậy dựa nên gởi hết
niềm tin vào đứa lớn, vào lúc đứa này
đă đủ sức nhận ra t́nh h́nh đó để
cậy thế gia trưởng, tỏ vẻ độc
tài, lại c̣n có thêm sự nhân nhượng của
người mẹ khiến t́nh h́nh ngày càng tệ hại
hơn, đặc biệt là khi xuất hiện nàng dâu
trưởng, một đồng minh đắc lực
có mặt đúng lúc “Huynh” coi trọng sự vun vén riêng
tư (t́nh h́nh này có vẻ tỷ lệ thuận với
tầm vóc di sản?). Đến lúc ấy, mấy chữ
kể trên biến thành một thứ “hiến pháp”
trong gia tộc, gia đ́nh.
Cụm từ
trên đă đến lúc cần được hiểu
lại cho thật đúng với ngữ pháp:
Trong ngữ
pháp chữ Hán, “quyền làm anh” phải gọi là “huynh
quyền” chứ không phải “quyền huynh”. Cũng
theo cấu trúc ngữ pháp như thế, quyền làm
cha được gọi là “phụ quyền”, quyền
đàn bà được gọi là “nữ quyền”, quyền
làm dân gọi là “dân quyền”, quyền b́nh đẳng
gọi là “b́nh quyền”... chứ không một ai gọi
trái khoáy là “quyền phụ”, “quyền nữ”, “quyền
dân”, “quyền b́nh”, v.v... bao giờ.
Có sẵn ḷng
hiểu đúng cúc trúc ngữ pháp chữ Hán như thế
th́ may ra người ta mới hiểu đúng bốn
chữ kể trên.
Thực ra, chữ
QUYỀN trong cụm từ này không hề chỉ quyền
hành, quyền lợi, quyền lực, quyền thế,
.v.v... mà chỉ có nghĩa là QUYỀN BIẾN (là động
từ chứ không phải danh từ).
Quyền biến
là nói tắt cụm từ “ngộ biến ṭng quyền”
của Mạnh Tử (372 - 289 trước Công
Nguyên). Nó xuất phát từ mẩu chuyện sau:
Nguyên Nho giáo
quan niệm “nam nữ thụ thụ bất thân” (trai
gái kẻ trao người nhận không được
gần kề). Vế tiếp theo là “điện
nhi thủ chi” (đặt ở đấy mà lấy).
Ngụ ư cụ thể ở đây là nam nữ không
được đụng đến tay nhau (dễ bị
“nhân điện” dẫn tới hành vi bản năng
trái với đạo lư). Thế là có người
“hỏi gay” (vấn nạn) Mạnh Tử: “Nếu
chị dâu rơi xuống giếng th́ phải làm sao?”
Mạnh Tử đáp “Xử thường chấp kinh,
ngộ biến ṭng quyền” (cư xử lúc b́nh
thường th́ chấp hành đạo lư, gặp tai biến
th́ tạm theo cách làm cần thiết của t́nh thế).
Suy luận theo
tinh thần ấy của Mạnh Tử th́ QUYỀN
HUYNH THẾ PHỤ có nghĩa là “tạm thời dùng anh
thay cha” (khi... ngộ biến). Người làm anh
trong trường hợp này phải đặt nặng
vấn đề trách nhiệm hơn quyền lợi,
phải gánh vác mọi việc của cha để lại,
c̣n về mặt t́nh nghĩa th́ anh vẫn măi là anh, em vẫn
măi là em chứ không hề có chuyện đột xuất
chuyển t́nh anh em ra đạo cha con được.
Và đă là t́nh anh em th́ phải giữ cho đúng theo
giáo điều “huynh hữu đệ cung” tức là
anh th́ nhất thiết phải coi em như bạn (HỮU)
đồng vai phải lứa, nhưng em phải kính
trọng (CUNG) anh như cư xử với bề trên,
chứ không được lợi dụng t́nh anh thân mật
mà bỗ bă, xô bồ.
Chữ QUYỀN
này cũng thường bị hiểu không trọn vẹn
nghĩa gốc khi người ta đặt nó trước
tên gọi chức vụ.
Chẳng hạn
như Hồ Chủ tịch đi dự hội nghị
Fontainebleau ở Pháp năm 1946, theo hiến pháp th́ chính
Phó Chủ tịch phải thay Chủ tịch để
xứ lư việc nước, nhưng do t́nh h́nh đặc
biệt bấy giờ nên cụ Huỳnh Thúc Kháng lại
được chọn giao chức vụ Quyền Chủ
tịch. Nếu gọi cho đủ chữ và
đúng ngữ pháp th́ phải gọi là Quyền Bộ
trưởng Nội vụ thế Chủ tịch và
rút gọn thành Quyền Chủ tịch. Theo phép rút
gọn này, cùm từ quyền huynh thế phụ cũng
có thể rút gọn hợp lệ thành quyền phụ.
Trong tinh thần
ấy, Quyền Chủ tịch Huỳnh Thúc Kháng tuy xử
lư mọi nhiệm vụ của Chủ tịch
nhưng trên nguyên tắc vẫn chỉ hưởng bậc
lương dành cho Bộ trưởng Nội vụ chứ
không phải hưởng lương Chủ Tịch.
Đă đến
lúc cần đến sự dũng cảm để
hiểu đúng ngữ pháp cụm từ QUYỀN HUYNH
THẾ PHỤ, không nên về hùa, vô t́nh hay cố t́nh dốt
hiểu sai ngữ pháp để thỏa măn quyền lợi
cá nhân như t́nh trạng thường diễn ra trong
các gia tộc từ bao đời nay.
Dường
như đă có không ít “Huynh” từng nghĩ đến
việc “thế phụ” một cách cực kỳ sai
trái về mặt đạo lư. Họ chỉ
đau đớn qua loa cho sự mất mát cha, c̣n th́ cảm
thấy tràn đầy hân hoan khi sự mất mát ấy
đă đem lại cho ḿnh... bước thăng tiến
vẻ vang, họ tự cho ḿnh là “Thái tử” đă
đến ngày kế vị ngai vàng và thầm nghĩ rằng
từ nay th́ ngay cả mẹ ḿnh cũng sắp phải
tuân lệnh ḿnh răm rắp cho thật đúng đạo
tam ṭng, hệt như trong quá khứ bà ta đă từng
phải khép nép trước oai cha như vậy.
Tôi nghĩ rằng
trong t́nh h́nh hiện nay, khoảng cách giữa việc
hiểu sai theo tập quán truyền đời với
việc hiểu đúng theo ngữ pháp cố định
xem ra c̣n quá xa nhau. Việc hiểu cho đúng ư nghĩa
cụm từ “quyền huynh thế phụ” so ra có lẽ
c̣n khó hơn việc thuyết phục được
Ṭa án Giáo hội Thiên Chúa thời trung cổ chịu hiểu
đúng thuyết “Quả đất quay” của nhà bác
học Copermic (1473 - 1543).
(Dựa theo gia
phả họ Ngô)
Giáo Sư Ngô Văn Lại 吴文赖老师 <photo>
Việt Nam,
2006
|