|
DỊCH
THƠ:
ĐÊM
GHÉ PHONG KIỀU
Quạ kêu,
trăng lặn, sương dày,
Lá hồng ngủ
với lửa chài buồn tênh.
Chuà Hàn sơn tiếng
chuông rền,
Vọng về
thuyền khách giữa đêm Phong Kiều.
Thái Trọng Lai 太重来 dịch
Đà Nẵng, Việt Nam, Cuối
Năm 2010
*
Dịch nghĩa:
Trăng đă lặn, quạ lại
kêu, sương giăng dày đặc đầy trời,
Nh́n ánh lửa chài trên sông và cây phong
(maple tree) mờ ảo bên bờ ḷng thấy buồn
tênh chưa ngủ được.
Nghe từ chùa Hàn Sơn ở ngọai
thành Tô châu,
Tiếng chuông vô thường giữa
đêm vọng về thuyền khách đang ghé bến
Phong Kiều (đầu đề bài thơ).
Trăng tàn, quạ
gọi, sương đầy,
Lửa chài, ta
khách sầu vây, phong buồn.
Đêm Tô thành ngọai
thuyền c̣n,
Nghe Hàn Sơn Tự
tiếng chuông vọng về…
Hàn Quốc
Trung 韓國忠 chuyển
ngữ
California, Hiệp
Chủng Quốc, 3/2013
|
(*)
Đầu mùa xuân Quư Tỵ 2013, người dịch
có dịp viếng chùa Hàn Sơn, nay thuộc tỉnh
Giang Tô, Trung Quốc, chụp được vài tấm
ảnh đính kèm. Cô Tô
là tên gọi khác của thành Tô châu. Phong Kiều nguyên
sơ là tên của một chiếc cầu (cầu
Phong), sau cũng trở thành một địa danh (Trấn
Phong Kiều).
|

(2)
寒山寺 Chùa Hàn Sơn

(3)
寒山寺内的“张继《楓橋夜泊》”。就因这首詩使寒山寺名揚天下,成为千古的游览勝地之一。
Bài thơ “Phong Kiều
Dạ Bạc” nỗi tiếng cuả Trương Kế
đă làm Hàn Sơn Tự trứ danh thiên hạ,
được khắc dựng trong khuôn viên chùa Hàn
Sơn ngày nay.

(4)
可惜寺内不允许攝影 Rất
tiếc bên trong chùa không cho phép chụp h́nh.

(5)

(6)

(7)

(8)

(9)
寒山寺全景圖 Bản
đồ ṭan cảnh chùa Hàn Sơn
|