*唐詩越譯*  感遇  CẢM NGỘ

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NGUYÊN TÁC:

 

 

 

PHIÊN ÂM HÁN VIỆT:

 

CẢM NGỘ

 

KỲ NHẤT

 

Trương Cửu Linh

 

Cô hồng hải thượng lai,

Tŕ hoàng bất cảm cố.

Trắc kiến song thuư điểu,

Sào tại tam châu thụ.

Kiểu kiểu trân mộc điên,

Đắc vô kim hoàn cụ ?

Mỹ phục hoạn nhân chỉ,

Cao minh bức thần ố.

Kim ngă du minh minh,

Dặc giả hà sở mộ?

 

 

DỊCH THƠ:

 

CẢM NGỘ

 

BÀI MỘT

 

Lẻ loi ngoài biển bay vào,

Chim hồng2 đâu dám ngắm ao nh́n đầm?

Liếc đôi phỉ thuư3 cao sang,

Tổ cao chót vót trên hàng trân châu.4

 

Đạn5 vàng chả dám bắn đâu!

Hiu hiu tự đắc chẳng cầu đến chi.

Mặc đẹp: thiên hạ xầm x́,

Thông minh: thần thánh có khi phật ḷng.

Nay ta chơi tít tầng không,

Thợ săn mỏi cổ há mong được mồi?

 

 

Thái Trọng Lai  太重来  dịch

Đà Nẵng, Việt Nam, Cuối Năm 2010

 

 

 

CHÚ THÍCH:

 

  1. Cảm ngộ : cảm ơn tri ngộ (kẻ sĩ không có cơ hội thi thố tài năng là lâm cảnh đại bất hạnh “hoài tài bất ngộ” (ôm tài mà không gặp cơ hội) v́ vậy khi được vua chúa biết đến và tin dùng là được “tri ngộ” và kẻ sĩ sẵn sàng đền đáp. Như thế là cảm ngộ.
  2. Chim hồng : giống chim lớn như thiên nga, bay cao hơn mọi loài, tiêu biểu cho hạng người có chí lớn. Người xưa ngây thơ cho rằng khả năng ấy nhờ ở bộ lông siêu nhẹ ( ! )
  3. Phỉ thuư: loài chim có lông cánh ánh màu xanh biếc. Tiếng Việt gọi là chim trả và có từ ngữ màu cánh trả.
  4. Trân châu : ngọc trai. Do phải ṃ tận đáy biển mới có nên được coi là quư báu. Chữ dùng ở nguyên tác là tam châu thụ, tác giả hư cấu một loài cây cao, mỗi lá có ba hạt trân châu.
  5. Đạn : viên đất nung dùng bắn thay tên cho đỡ bị gió cản và khỏi hỏng chiến lợi phẩm.

 

Lưu ư : Phần “ư ở ngoài lời” của cả 4 bài Cảm ngộ nhằm đối phó với Lư Lâm Phủ và đồng đảng. Y được mệnh danh là “nhân diện thú” (thú mặt người) và là kẻ “tiếu trung hữu đao” (trong cười có dao). Y đă hại vô số trung thần tài năng để bảo vệ an toàn cho ḿnh. Màn cuối cuộc giác đấu với Trương Cửu Linh là Trương bị mất chức tể tướng, bị biếm chức dần dần, cuối cùng là làm dân, khi qua đời chỉ được gọi là Khúc giang công (ông người Khúc giang) mà không nhắc đến tên thật cùng chức tước nguyên cựu (có thể coi Trương có chung đôi nét với “bản gốc” của mẫu nhân vật Lưu Thiếu Kỳ, trong lịch sử hiện đại !).

 

 

 

 

PHIÊN ÂM HÁN VIỆT:

 

KỲ NH

 

Lan diệp xuân uy tô

Quế hoa thu hạo khiết

Hân hân thử sinh ư

Tự nhĩ vi giai tiết.

Thuỳ tri lâm thê giả,

Văn phong toạ tương duyệt.

Thảo mộc hữu bản tâm,

Hà cầu mỹ nhân chiết?

 

 

DỊCH THƠ:

 

BÀI HAI

 

Xuân về lan rậm lá hơn,

Thu sang hoa quế càng thơm càng nồng.

Tràn trề nhựa sống hân hoan,

Khiến cho thời tiết đàng hoàng hẳn ra. 6

Ai hay kẻ náu rừng già,

Nghe hơi gió thoảng cũng là niềm vui.

Cỏ cây tự biết ḿnh thôi,

Cần chi người đẹp bẻ rời về chưng. 7

 

 

Thái Trọng Lai  太重来  dịch

Đà Nẵng, Việt Nam, Cuối Năm 2010

 

 

 

CHÚ THÍCH:

 

  1. 4 câu đầu: theo cơ chế xưa, thi cử được tổ chức vào 2 mùa Xuân và Thu. Xuân vi lấy tiến sĩ, Thu vi lấy cử nhân. Kẻ đỗ đạt được coi là “bẻ cành quế đỏ” (loại quế chỉ có trên cung trăng!). Trong cảnh nô nức sôi nổi ấy, Trương Cửu Linh rất có ưu thế, đỗ tiến sĩ làm tể tướng, được coi là có phong cách đại quan.
  2. 4 câu sau: tác giả bị thất sủng, cam đầu hàng số phận nhưng vẫn tự hào về bản thân, cấm kẻ khác “bẻ cành” bừa băi để lợi dụng.

 

 

 

 

PHIÊN ÂM HÁN VIỆT:

 

KỲ TAM

 

U nhân qui độc ngoạ

Trệ lự tẩy cô thanh.

Tŕ thử tạ cao điểu,

Nhân chi truyền viễn t́nh.

Nhật tịch hoài không ư,

Nhân thuỳ cảm chí tinh?

Phi trầm lư tự cách,

Hà sở uỷ ngô thành?

 

 

DỊCH THƠ:

 

BÀI BA

 

Một ḿnh ẩn sĩ8 quay về,

Lo nghĩ bộn bề gột sạch xong xuôi.

Đem ḷng gửi cánh chim trời,

Nhờ chim truyền khắp tâm9 người sáng trong.

Sớm chiều ôm dạ hư không10,

Liệu ai cảm nhận sáng trong cho ḿnh.

Bay, ch́m khoảng cách đă đành, 11

Lấy ǵ an ủi ḷng thành của ta?

 

 

Thái Trọng Lai  太重来  dịch

Đà Nẵng, Việt Nam, Cuối Năm 2010

 

 

 

CHÚ THÍCH:

 

  1. Ẩn sĩ: tác giả ngụ ư ḿnh là kẻ không c̣n lưu luyến chức vụ đă mất.
  2. Tâm: ḷng dạ tác giả.
  3. Hư không: nguyên văn không ư ( để ḷng trống rỗng, không ư đồ ǵ) Đó là giáo điều của Đạo giáo, chủ trương tâm người mộ đạo phải Hư-Nhất-Tĩnh để thanh thản vô vi.
  4. Cả câu ngụ ư: con người một là bay cao, hai là ch́m sâu, đời dành cho ǵ hay nấy, không nên oán hận. Ông hiểu lẽ ấy nhưng không rơ người ta có hiểu rằng ông đă hiểu thật ḷng hay không ?

 

 

 

 

PHIÊN ÂM HÁN VIỆT:

 

KỲ TỨ

 

Giang nam hữu đan quất,

Kinh đông do lục lâm.

Khởi y địa khí noăn?

Tự hữu tuế hàn tâm.

Khả dĩ tiến gia khách,

Nại hà trở trọng thâm.

Vận mệnh duy sở ngộ,

Tuần hoàn bất khả tầm.

Đồ ngôn thụ đào lư,

Thử mộc khởi vô âm?

 

 

DỊCH THƠ:

 

BÀI BỐN

 

Giang nam có giống quưt hồng,

Lá xanh khi gặp mùa đông đến t́m.

Há rằng đất ấm, trời im?

Chẳng qua ḷng ấy đă quen tuế hàn12,

Quả ngon đáng đăi khách sang,

          Nhưng xa xôi thế, lo toan cách nào?

Vận mệnh gặp gỡ ra sao,

Xoay vần chịu vậy, t́m đâu cho thành?

Người rằng đào, lư13 trồng nhanh,

Há cho trồng quưt14 không thành rừng sao?

 

 

Thái Trọng Lai  太重来  dịch

Đà Nẵng, Việt Nam, Cuối Năm 2010

 

 

 

CHÚ THÍCH:

 

  1. Tuế hàn: khí lạnh mỗi năm.
  2. Đào, lư: biểu trưng cho giới quyền cao chức trọng.
  3. Quưt: biểu trưng cho hạng hèn hạ (dân ta cũng quen gọi tôi tớ là con sen, thằng quưt).

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

*** 投稿電郵請寄 ***

Bài vở & h́nh ảnh xin gởi về Ban Phụ Trách KHAIMINH.ORG

 

VanNgheGiaiTri@KhaiMinh.org

 

 

 

啓明网站  |  Copyright ©  2011  KHAIMINH.ORG  |  Website Disclaimer