*唐詩越譯*  哀江頭  AI GIANG ĐẦU

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

NGUYÊN TÁC:

 

 

 

PHIÊN ÂM HÁN VIỆT:

 

AI GIANG ĐẦU

 

Đỗ Phủ

 

Thiếu Lăng dă lăo thôn thanh khốc,

Xuân nhật tiềm hành Khúc giang khúc.

Giang đầu cung điện tỏa thiên môn,

Tế liễu tân bồ vị thùy lục?

ức tích nghê tinh hạ Nam uyển,

Uyển trung cảnh vật sinh nhan sắc.

Chiêu Dương điện lư đệ nhất nhân,

Đồng liễn tùy quân thị quân trắc.

Liễn tiền tài nhân đái cung tiễn,

Bạch mă tước xỉ hoàng kim lặc.

Phiên thân hướng thiên ngưỡng xạ vân,

Nhất tiễn chính trụy song phi dực.

Minh mâu hạo xỉ kim hà tại?

Huyết ô du hồn qui bất đắc.

Thanh Vị đông lưu Kiếm Các thành,

Khứ trú bỉ thử vô tiêu tức.

Nhân sinh hữu t́nh lệ triêm ức,

Giang thảo giang hoa khởi chung cực.

Hoàng hôn Hồ kỵ trần măn thành,

Dục văng thành nam vọng thành bắc.

 

 

DỊCH THƠ:

 

NỖI BUỒN ĐẦU SÔNG (1)

 

Lăo nhà quê đất Thiếu Lăng, (2)

Nghẹn ngào kể chuyện Khúc giang (3) ngày nào.

Đầu sông cung điện ngợp cao,

Giờ đây bồ liễu chen màu xanh tươi.

Nhớ xưa cờ xí rợp trời,

Tía hồng Nam uyển (4) tuyệt vời phô trương.

Người số một điện Chiêu Dương, (5)

Chầu bên hoàng thượng trên đường ngự du.

Trước xe nườm nượp tài nhân, (6)

Khoác cung, ngựa trắng cương vàng uy phong.

Xoay ḿnh, tên vút lên không,

Đôi chim liền cánh (7) song song chúc đầu.

Mắt ngời, răng lóa (8) về đâu?

Huyết nhơ, (9) hồn phách không sao t́m đường.

Ḍng sông Vị nước vẫn tuôn,

Bên thành Kiếm Các (10) vô phương cầu hồn.

Lệ rơi, gan ruột héo hon,

Cỏ tàn, hoa rụng trên sông bao lần?

Ngựa Hồ tung vó bụi hồng, (11)

Mịt mờ nam bắc khó trông rơ thành. (12)

 

 

Thái Trọng Lai  太重来  dịch

Đà Nẵng, Việt Nam, Cuối Năm 2010

 

 

 

 

CHÚ THÍCH:

 

  1. Đầu sông: Sông ở đây là Khúc giang chảy phía đông phố Chu Tước của kinh thành Tràng An.
  2. Thiểu Lăng: “lăng bé”, tên gọi lăng mộ của Hứa hậu, xây ở khu vườn kề Đỗ Lăng của Hán Tuyên đế (73-51 trCN). Nhà Đỗ Phủ tọa lạc cạnh đấy nên mượn tên Thiểu Lăng làm biệt hiệu.
  3. Khúc giang: Ḍng sông uốn lượn quanh co gợi cho Đỗ Phủ liên tưởng cuộc đời nhiều bước ngoặc của Dương Quư phi.
  4. Tía hồng Nam uyển: Các màu hoa (cùng màu cờ xí vương gia) ở vườn thượng uyển phía Nam kinh thành Tràng An.
  5. Chiêu Dương: Tên điện lộng lẫy nguy nga đời Hàn, Đỗ Phủ mượn tên để chỉ nơi sống sang trọng của Dương Quư phi (sau này Bạch Cư Dị cũng dùng lại cách ấy trong Trường hận ca).
  6. Tài nhân: Số nữ quan dàn hầu, tùy ṭng Đường Minh Hoàng khi xuất du.
  7. Đôi chim liền cánh: Cảnh phô tài khá ấn tượng của đoàn nữ quan. Ở đây Đỗ Phủ ngầm dự báo hồi kết của mối t́nh hận vương giả nọ. Họ vốn đă thề ước bên nhau trọn đời “trên trời làm chim liền cánh, dưới đất làm cây liền cành”.
  8. Mắt ngời răng lóa: Ám chỉ nhan sắc của Dương Quư phi.
  9. Huyết nhơ: Ư gốc “huyết gây ô uế nên hồn lang thang không về được”, mặc dù trên đường tị nạn, Đường Minh Hoàng nhiều lần cầu hồn. Ư thơ này nêu rơ Quư phi bị chém chứ không phải treo cổ như sử sách. Là người đương thời đương cuộc, liệu họ Đỗ có tôn trọng sự thật không?
  10. Kiếm Các: Địa danh nằm trên đường bôn Thục của Minh Hoàng.
  11. Cả câu ám chỉ cuộc dấy loạn mạnh mẽ của An Lộc Sơn, chỉ 3 tháng đă chiếm kinh đô, nhanh chóng xưng đế, cải quốc hiệu, gây dư luận hoang mang tối đa.
  12. Toàn câu dùng lối diễn đạt ấn tượng: Hoàng hôn cùng bụi hồng của vó ngựa Hồ làm tác giả mất khả năng định hướng: muốn đi về phía nam thành Kiếm Các nhưng lại nhắm quàng phía bắc.

 

Chú ư:  Khi quân An Sử chiếm Tràng An (756) Minh Hoàng di tản vào đất Thục giao việc phục quốc cho con trai là Lư Hanh (Túc tông), Đỗ Phủ đưa gia quyến về Phu châu rồi một ḿnh đi Linh Vũ theo Túc tông. Giữa đường ông bị quân An Sử bắt giải về Tràng An nên có dịp chứng kiến cảnh hoang tàn của thủ đô bèn viết bài này để ai điếu.

 

Bài Ai Vương Tôn của ông cũng tiếp tục chủ đề này ( Theo Từ Chiêu Vũ – Trung Hoa danh nhân danh sự danh ngôn từ điển – Thượng Hải 1998).

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

*** 投稿電郵請寄 ***

Bài vở & h́nh ảnh xin gởi về Ban Phụ Trách KHAIMINH.ORG

 

VanNgheGiaiTri@KhaiMinh.org

 

 

 

啓明网站  |  Copyright ©  2011  KHAIMINH.ORG  |  Website Disclaimer