Cao Thích (高適)
(704—765) người châu
Thương, huyện
Bột Hải, đời Đường,
nay thuộc huyện
Cảnh, tỉnh
Hà Bắc, Trung Quốc, tự Đạt Phu (達夫).
Ông đổ Tiến Sĩ năm 749, từng giữ các chức H́nh Bộ Thị Lang, Tán Kị Thường Thị,
nên người đời c̣n gọi ông là Cao Thường Thị. Trước
tác của ông gồm có “Cao Thường Thị Tập” (高常侍集).
Ông cùng với Sầm Tham (岑参),
Vương Xương
Linh (王昌龄),
và Vương
Chi Hoán (王之涣) được gọi
là “Biên Tái Tứ Thi Nhân” (邊塞四詩人)
– “biên tái” có nghĩa biên ải, biên cương.
(Nguyên Tác)

*
(Âm Hán Việt)
TRỪ DẠ TÁC
Cao Thích
Lữ quán hàn đăng độc bất miên,
Khách tâm hà sự chuyển thê nhiên.
Cố hương
1 kim dạ
tư thiên lư 2,
Sương mấn
minh triêu hựu nhất niên.
◆
( Chuyển Ngữ )
ĐÊM TRỪ TỊCH
Lẻ loi quán trọ chong đèn,
Chuyện chi ḷng
khách buồn tênh thế à.
Đêm nay quê nhớ người xa 1,
Tóc râu sương điểm
mai đà thêm năm 2.
Hàn Quốc
Trung 韓國忠
二零二三年一月二十三日 (兔年初二)於美國,加利福尼亞州,洛杉磯
|
Chú Thích:
- Câu
thứ ba tác giả đă thố lộ tâm trạng nhớ nhà của ḿnh qua cách nghĩ rằng đêm Trừ Tịch này, nơi quê nhà xa xôi những người thân đang quay quần
bên nhau cũng nghĩ và nhớ về tác giả hiện c̣n đang lưu lạc một nơi chốn biền biệt nào đó chưa thể về được. Do vậy,
nếu thích,
câu này người đọc
vẫn có thể đổi
thành “Đêm
nay xa nhớ
quê nhà,”
nhưng riêng
người dịch
th́ muốn giữ nguyên phong cách viết của nguyên tác đầy ư vị.
- Tác giả
cảm khái xót xa, sáng mai năm mới lại thêm một năm, một tuổi nữa rồi nhưng công vẫn chưa thành mà danh vẫn chưa toại.
|