7. RỪNG THU
Tiếng sấm
vang ầm, rừng lá tang,
Mưa rơi thắm
ngói, ướt chuông vàng.
Rộn ràng bầy
én tìm cành đậu,
Ngơ ngẩn
đàng nai chiếm chổ nàng.
Gió cuốn bụi
mù, chim nhớ tổ,
Mây chùn che nắng,
kiến dời hang.
Hết mùa
thương nhớ đông kề đến,
Lấp lững rừng
thu…bóng sắp tàn.
8. LUYẾN THU
Thu về mưa nắng
đổi “bất” thường,
Cây lá úa vàng gợi
nhớ thương.
Thung lũng triền
đồi, nai giởn suối,
Bờ đê dốc
đá, thỏ quen đường.
Thác rơi từng
chập, chờ mưa giáng,
Mây phủ lững
ngàn đợi gió vươn.
Thấp thoáng
hương tình khơi ảo mộng,
Trời thu tuyệt
tác…bướm hoa nhường.
9. TÀN THU
Thu tàn trở lạnh
sắp sang đông,
Gió rít từng
cơn rộn cánh đồng.
Chim chóc rời
đàn tìm nắng ấm,
Thú rừng bỏ
chỗ tránh mưa dông.
Suối tràn ngập
lá rơi dòng thác,
Ruộng vắng
thưa người xén cỏ bông.
Sương phủ
đầm sen chiều chạng vạng,
Tàn thu ai đợi
trắng hoa lòng.
Du Sơn
Lãng Tử 遊山浪子 <photo>
26 Tháng 10, 2006 - Bắc California,
U.S.A.
|
7. HOẠ RỪNG THU
Rừng thu hòa lẫn
tiếng tình tang,
Ngàn vạn lá
rơi dệt thảm vàng.
Âu yếm đôi
chim, tình trống mái,
Giỡn đùa cặp
sóc, nghĩa chàng nàng.
Mái tranh mưa nắng
mong che kín,
Vách nứa trước
nhà lại hở hang.
Trơ trụi cành
cây không có lá,
Đông sang lạnh
lẽo, nét thu tàn.
8. HOẠ LUYẾN THU
Tháng tám trăng thu
đẹp lạ thường,
Cũng là mùa cưới
với yêu thương.
Trời xanh trong trẻo,
cây vàng đậm,
Đất thẩm
xám nâu, lá đỏ đường.
Ấm áp chăn
bông tình luyến ái,
Yên vui cuộc sống
mộng đời vươn.
Hằng Nga, thỏ
ngọc treo cao đó,
Ai cũng luyến
thu, cũng phải nhường.
9. HOẠ TÀN THU
Lá vàng rụng hết
đến mùa đông,
Cây cối khẳng
khiu cả cánh đồng.
Ẩn chứa bên
trong dòng nhựa sống,
Tiềm tàng vỏ
bọc dội mưa dông.
Huyền vi tạo
hóa hòa hương mộng,
Lẽ phải nhân
quần nở vạn bông.
Thay đổi bốn
mùa cung hợp nhất,
Tàn thu thương
tiếc biết bao lòng.
Mến hoạ
Võ Đình
Tiên 武庭仙
11, 2006, San Francisco, California,
U.S.A.
|