TRƯỜNG HẬN CA  -  長恨歌

 

 

 

Bảng quảng cáo vở kịch Trường Hận Ca ở Tây An, Thiểm Tây, Trung Quốc

( Tây An, ngày xưa gọi là Trường An hay Tràng An )

中国, 陝西省, 西安市 (古称 长安)

 

 

 

 

 

Nguyên tác

 

長恨歌

 

白居易

 

漢皇重色思傾國, 御宇多年求不得。
楊家有女初長成, 養在深閨人未識。
天生麗質難自棄, 一朝選在君王側。
回眸一笑百媚生, 六宮粉黛無顏色。
春寒賜浴華清池, 溫泉水滑洗凝脂。
侍兒扶起嬌無力, 始是新承恩澤時。
雲鬢花顏金步搖, 芙蓉帳暖度春宵。
春宵苦短日高起, 從此君王不早朝。
承歡侍宴無閒暇, 春從春遊夜專夜。
後宮佳麗三千人, 三千寵愛在一身。
金屋妝成嬌侍夜, 玉樓宴罷醉和春。
姊妹兄弟皆列土, 可憐光彩生門戶。
遂令天下父母心, 不重生男重生女。
驪宮高處入青雲, 仙樂風飄處處聞。
緩歌慢舞凝絲竹, 盡日君王看不足。
漁陽鼙鼓動地來, 驚破霓裳羽衣曲。
九重城闕煙塵生, 千乘萬騎西南行。
翠華颻颻行復止, 西出都門百餘里。
六軍不發無奈何, 宛轉蛾眉馬前死。
花鈿委地無人收, 翠翹金雀玉搔頭。
君王掩面救不得, 回看血淚相和流。
黃埃散漫風蕭索, 雲棧縈紆登劍閣。
峨嵋山下少人行, 旌旗無光日色薄。
蜀江水碧蜀山青, 聖主朝朝暮暮情。
行宮見月傷心色, 夜雨聞鈴腸斷聲。
天旋日轉回龍馭, 到此躊躇不能去。
馬嵬坡下泥土中, 不見玉顏空死處。
君臣相顧盡霑衣, 東望都門信馬歸。
歸來池苑皆依舊, 太液芙蓉未央柳。
芙蓉如面柳如眉, 對此如何不淚垂。
春風桃李花開日, 秋雨梧桐葉落時。
西宮南內多秋草, 落葉滿階紅不掃。
梨園弟子白髮新, 椒房阿監青娥老。
夕殿螢飛思悄然, 孤燈挑盡未成眠。
遲遲鐘鼓初長夜, 耿耿星河欲曙天。
鴛鴦瓦冷霜華重, 翡翠衾寒誰與共。
悠悠生死別經年, 魂魄不曾來入夢。
臨邛道士鴻都客, 能以精誠致魂魄。
為感君王輾轉思, 遂教方士殷勤覓。
排雲馭氣奔如電, 昇天入地求之遍。
上窮碧落下黃泉, 兩處茫茫皆不見。
忽聞海上有仙山, 山在虛無縹緲間。
樓閣玲瓏五雲起, 其中綽約多仙子。
中有一人字太真, 雪膚花貌參差是。
金闕西廂叩玉扃, 轉教小玉報雙成。
聞道漢家天子使, 九華帳裏夢魂驚。
攬衣推枕起徘徊, 珠箔銀屏迤邐開。
雲髻半偏新睡覺, 花冠不整下堂來。
風吹仙袂飄颻舉, 猶似霓裳羽衣舞。
玉容寂寞淚闌干, 梨花一枝春帶雨。
含情凝睇謝君王, 一別音容兩渺茫。
昭陽殿裏恩愛絕, 蓬萊宮中日月長。
回頭下望人寰處, 不見長安見塵霧。
唯將舊物表深情, 鈿合金釵寄將去。
釵留一股合一扇, 釵擘黃金合分鈿。
但教心似金鈿堅, 天上人間會相見。
臨別殷勤重寄詞, 詞中有誓兩心知。
七月七日長生殿, 夜半無人私語時。
在天願作比翼鳥, 在地願為連理枝。
天長地久有時盡, 此恨綿綿無絕期。

 

 

长恨歌

 

白居易

 

汉皇重色思倾国, 御宇多年求不得。
杨家有女初长成, 养在深闺人未识。
天生丽质难自弃, 一朝选在君王侧。
回眸一笑百媚生, 六宫粉黛无颜色。
春寒赐浴华清池, 温泉水滑洗凝脂。
侍儿扶起娇无力, 始是新承恩泽时。
云鬓花颜金步摇, 芙蓉帐暖度春宵。
春宵苦短日高起, 从此君王不早朝。
承欢侍宴无闲暇, 春从春游夜专夜。
后宫佳丽三千人, 三千宠爱在一身。
金屋妆成娇侍夜, 玉楼宴罢醉和春。
姊妹弟兄皆列土, 可怜光彩生门户。
遂令天下父母心, 不重生男重生女。
骊宫高处入青云, 仙乐风飘处处闻。
缓歌谩舞凝丝竹, 尽日君王看不足。
渔阳鼙鼓动地来, 惊破霓裳羽衣曲。
九重城阙烟尘生, 千乘万骑西南行。
翠华摇摇行复止, 西出都门百余里。
六军不发无奈何, 宛转蛾眉马前死。
花钿委地无人收, 翠翘金雀玉搔头。
君王掩面救不得, 回看血泪相和流。
黄埃散漫风萧索, 云栈萦纡登剑阁。
峨嵋山下少人行, 旌旗无光日色薄。
蜀江水碧蜀山青, 圣主朝朝暮暮情。
行宫见月伤心色, 夜雨闻铃肠断声。
天旋地转回龙驭, 到此踌躇不能去。
马嵬坡下泥土中, 不见玉颜空死处。
君臣相顾尽沾衣, 东望都门信马归。
归来池苑皆依旧, 太液芙蓉未央柳。
芙蓉如面柳如眉, 对此如何不泪垂。
春风桃李花开日, 秋雨梧桐叶落时。
西宫南内多秋草, 落叶满阶红不扫。
梨园弟子白发新, 椒房阿监青娥老。
夕殿萤飞思悄然, 孤灯挑尽未成眠。
迟迟钟鼓初长夜, 耿耿星河欲曙天。
鸳鸯瓦冷霜华重, 翡翠衾寒谁与共。
悠悠生死别经年, 魂魄不曾来入梦。
临邛道士鸿都客, 能以精诚致魂魄。
为感君王辗转思, 遂教方士殷勤觅。
排空驭气奔如电, 升天入地求之遍。
上穷碧落下黄泉, 两处茫茫皆不见。
忽闻海上有仙山, 山在虚无缥渺间。
楼阁玲珑五云起, 其中绰约多仙子。
中有一人字太真, 雪肤花貌参差是。
金阙西厢叩玉扃, 转教小玉报双成。
闻道汉家天子使, 九华帐里梦魂惊。
揽衣推枕起徘徊, 珠箔银屏迤逦开。
云鬓半偏新睡觉, 花冠不整下堂来。
风吹仙袂飘飘举, 犹似霓裳羽衣舞。
玉容寂寞泪阑干, 梨花一枝春带雨。
含情凝睇谢君王, 一别音容两渺茫。
昭阳殿里恩爱绝, 蓬莱宫中日月长。
回头下望人寰处, 不见长安见尘雾。
惟将旧物表深情, 钿合金钗寄将去。
钗留一股合一扇, 钗擘黄金合分钿。
但教心似金钿坚, 天上人间会相见。
临别殷勤重寄词, 词中有誓两心知。
七月七日长生殿, 夜半无人私语时。
在天愿作比翼鸟, 在地愿为连理枝。
天长地久有时尽, 此恨绵绵无绝期。

 

 

 

 

 

Phiên âm

 

TRƯỜNG HẬN CA

 

Bạch Cư Dị

 

Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc,

Ngự vũ đa niên cầu bất đắc.

Dương gia hữu nữ sơ trưởng thành,

          4.       Dưỡng tại thâm khuê nhân vị thức.

Thiên sinh lệ chất nan tự khí,

Nhất triêu tuyển tại quân vương trắc.

Hội mâu nhất tiếu bách mị sinh,

          8.       Lục cung phấn đại vô nhan sắc.

Xuân hàn tứ dục Hoa thanh tŕ,

Ôn tuyền thủy hoạt tảy ngưng chi.

Thị nhi pḥ khởi kiều vô lực,

          12.     Thử thị tân thừa ân trạch th́.

Vân mấn hoa khai kim bộ diêu,

Phù dung trướng noăn độ xuân tiêu.

Xuân tiêu khổ đoản nhật cao khởi,

          16.     Ṭng thử quân vương bất tảo triều.

Thửa hoan thị yến vô nhàn hạ,

Xuân ṭng xuân du dạ chuyển dạ,

Hậu cung giai lệ tam thiên nhân,

          20.     Tam thiên sủng ái tại nhất thân.

Kim ốc trang thành kiều thị dạ,

Ngọc lâu yến băi túy ḥa xuân.

Tỉ muội đệ huynh giai liệt thổ,

          24.     Khả liên quang thể sinh môn hộ.

Toại lệnh thiên hạ phụ mẫu tâm,

Bất trọng sinh nam trọng sinh nữ.

Ly cung cao xứ nhập thanh vân,

          28.     Tiên nhạc phong phiêu xứ xứ văn.

                   Hoăn ca mạn vũ ngưng ti trúc,

Tận nhật quân vương khán bất túc,

Ngư dương bề cổ động địa lai,

          32.     Kinh phá nghê thường vũ y khúc.

Cửu trùng thành khuyết yên trần sinh,

Thiên thặng vạn kỵ tây nam hành.

Thúy hoa diêu diêu hành phục chỉ,

          36.     Tây xuất đô môn bách dư lư.

Lục quân bất phát vô nại hà?

Uyển chuyên nga mi mă tiền tử.

Hoa điền ủy địa vô nhân thâu.

          40.     Thúy kiều kim tước ngọc tao đầu.

Quân vương yểm diện cứu bất đắc,

Hồi khán huyết lệ tương ḥa lưu.

Hoàng ai tản mạn phong tiêu tác,

          44.     Vân sạn oanh vu đăng Kiếm các.

Nga mi sơn hạ thiểu nhân hành,

Tinh kỳ vô quang nhật sắc bạc.

Thục giang thủy bích Thục sơn thanh,

          48.     Thánh chúa triêu triêu mộ mộ t́nh.

Hành cung kiến nguyệt thương tâm sắc,

Dạ vũ văn linh trường đoạn thanh.

Thiên triền địa chuyển hồi long ngự,

          52.     Đáo thử trù trừ bất năng khứ.

Mă ngôi pha hạ nê thổ trung,

Bất kiến ngọc nhân không tử xứ.

Quân thần tương cố tận triêm y,

          56.     Đông vọng đô môn tín mă qui.

Qui lai tŕ uyển gia y cựu,

Thái dịch phù dung Vi ương liễu.

Phù dung như diện liễu như mi,

          60.     Đối thử như hà bất lệ thùy?

Xuân phong đào lư hoa khai nhật,

Thu vũ ngô đồng diệp lạc th́.

Tây cung nam nội đa thu thảo,

          64.     Lạc diệp măn giai hồng bất tảo.

Lê viên tử đệ bạch phát tân,

Tiêu pḥng a giám thanh nga lăo.

Tịch điện huỳnh phi tứ tiệu nhiên,

          68.     Cô đăng khiêu tận vị thành miên.

Tŕ tŕ chung cổ sơ trường dạ,

Cảnh cảnh tinh hà dục thự thiên.

Uyên ương ngơa lănh sương hoa trọng,

          72.     Phỉ thúy châm hàn thùy dữ cộng?

Du du sinh tử biệt kinh niên,

Hồn phách bất tằng lai nhập mộng.

Lâm cùng đạo sĩ Hồng đô khách,

          76.     Năng dĩ tinh thần trí hồn phách.

Vị cảm quân vương triển chuyển tư,

Toại giao phương sĩ ân cần mích.

Bài không ngự khí bôn như điện,

          80.     Thăng thiên nhập địa cầu chi biến,

Thượng ṭng bích lạc hạ hoàng tuyền,

Lưỡng xứ mang mang giai bất kiến.

Hốt văn hải thượng hữu tiên san,

          84.     San tại hư vô phiêu diễu gian.

Lâu các linh lung ngũ vân khởi,

Kỳ trung xước ước đa tiên tử,

Trung hữu nhất nhân tự Thái Chân.

          88.     Tuyết phu hoa mạo sâm si thị.

Kim khuyết tây sương khấu ngọc quynh,

Chuyển giao Tiểu Ngọc báo Song Thành.

Văn đạo Hán gia thiên tử sứ,

          92.     Cửu hoa trướng lư mộng hồn kinh,

Lăm y thôi chẩm khởi bồi hồi,

Châu bạc ngân b́nh dĩ lư khai.

Vân mấn bán thiên tân thụy giác,

          96.     Hoa quan bất chỉnh hạ đường lai.

Phong xuy tiên quyết phiêu phiêu cử,

Do tự nghê thường vũ y vũ.

Ngọc dung tịch mịch lệ lan can,

          100.   Lê hoa nhất chi xuân đới vũ.

Hàm t́nh ngưng thế tạ quân vương,

Nhất biệt âm dung lưỡng diễu mang.

Chiêu dương điện lư ân ái tuyệt,

          104.   Bồng lai cung trung nhật nguyệt trường.

Hồi đầu hạ vọng nhân hoàn xứ,

Bất kiến Tràng An kiến trần vụ.

Duy tương cựu vật biểu thâm t́nh,

          108.   Điền hợp kim thoa kư tương khứ.

Thoa lưu nhất cổ hợp nhất phiến,

Thoa phách hoàng kim hợp phân điện.

Đản giao tâm tự kim điền kiên,

          112.   Thiên thượng nhân gian hội tương kiến.

Lâm biệt ân cần trọng kư từ,

Từ trung hữu thệ lưỡng tâm tri,

Thất nguyệt thất nhật Tràng sinh điện,

          116.   Dạ bán vô nhân tư ngữ th́.

Tại thiên nguyện tác tị dực điểu,

Tại địa nguyện vi liên lư chi.

Thiên trường địa cữu hữu thời tận,

120.       Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ…

 

 

Thái Trọng Lai  (dịch)

 

 

 

 

 

 

 

 

Dịch thơ

 

MỐI HỜN KHÔN NGUÔI 1

 

Vua xứ Hán 2 mơ trang quốc sắc,

T́m nhiều năm chưa gặp được chi.

Họ Dương có gái đến th́ 3,

4.       Pḥng khuê thăm thẳm dễ ǵ ai hay?

Sắc trời cho, liệu ai giấu nổi?

Chợt hôm nao đón tới bệ rồng.

Ngoảnh nh́n trăm vẻ năo nùng,

8.       So bề nhan sắc, sáu cung 4 hóa xoàng.

Ao Hoa thanh 5 vua ban, nàng tắm,

Nước ôn tuyền 6 thấm ấm mỡ đông 7,

Nữ t́ d́u đỡ lưng ong.

12.     Ấy ơn mưa móc ḿnh rồng mới ban.

Gót sen vàng, tóc mây, hoa phấn, 8

Trướng phù dung êm ấm đêm xuân.

Đêm xuân ngắn ngủi lạ nhường!

16.     Quân vương đắm đuối trễ luôn phiên chầu.

Bận theo hầu tiệc tùng tiếp nối,

Hết liên hoan lại tới liên hoan.

Hậu cung 9 người đẹp ba ngàn,

20.     Vua dồn say đắm cho nàng một thân.

Điểm trang xong, điện vàng 10 nâng giấc,

Yến tiệc tan, lầu ngọc ngất ngây.

Anh chị em vẻ vang lây,

24.     Hôm qua cắt đất 11, hôm nay trao quyền.

Khiến cha mẹ mọi miền nghĩ lại:

- Trai mà chi ? Sinh gái mới hay!

Ly cung 12 chót vót tầng mây,

28.     Nhạc tiên 13 réo rắt gió bay mọi vùng.

Tiếng tơ trúc ḥa cùng ca vũ,

Xem suốt ngày chưa đủ vua mừng.

Nghê thường 14 đang múa chợt ngưng,

32.     Ầm ầm trống trận Ngư dương 15 dội về.

Khắp kinh kỳ, ngựa xe tràn ngập,

Nhắm tây nam 16 rầm rập chẳng ngừng.

Ngọn cờ khi trẩy, khi dừng,

36.     Ĺa kinh trăm dặm nhắm đường về tây.

Quân dừng lại và gây áp lực,

Quyết đ̣i vua lập tức giết nàng.

Bao nhiêu trâm ngọc, thoa vàng,

40.     Bết bê bùn đất, ai màng nhặt chi.

Vua nén ḷng quay đi, che mặt,

Ngoảnh nh́n lui, lệ máu chan ḥa.

Bụi vàng tản mạn gió xa.

44.     Đường mây 17 Kiếm các 18 cố mà tiến lên.

Núi Nga mi 19 bốn bên quạnh quẽ,

Cờ nhạt màu, nắng xế đ́u hiu.

Non xanh biếc, nước trong veo,

48.     Khó khuây ḷng chúa sớm chiều héo hon.

Trăng hành cung 20 khiến ḷng se sắt,

Chuông đêm mưa ruột thắt gan bào.

Vần xoay trời đất chuyển mau, 21

52.     Lối xưa qua đấy xót đau ngập ngừng.

Triền Mă ngôi 22 vẫn bùn lẫn đất,

Nào thấy nơi nàng mất hôm nao,

Vua tôi quay ngắm lệ trào,

56.     Mặc cho vó ngựa t́m vào cửa Đông.

Hồ Thái dịch 23 phù dung vẫn nở,

Cung Vị ương 24 liễu rũ thêm dài.

Liễu, hoa gợi dáng mặt ai,

60.     Đôi ḍng dư lệ 25 tuôn dài xót xa.

Gió xuân giục nở hoa đào lư,

Mưa thu rơi trút lá ngô đồng.

Tây cung 26 cỏ úa lá hồng,

64.     Rụng rơi sau trước chất chồng thềm hoang.

Đám Lên viên 27 nay toàn đầu bạc,

Khách tiêu pḥng 28 tuổi hạc đều cao.

Đêm sâu đom đóm ra vào,

68.     Đèn tàn hiu hắt giấc sao chẳng về?

Tiếng chiêng trống 29 vẳng nghe thỉnh thoảng,

Dải t́nh hà 30 hửng sáng trời đêm.

Ngói uyên ương 31 đẫm lạnh thêm,

72.     Tấm chăn phỉ thúy 32 đắp riêng một ḿnh.

Suốt năm dài tử sinh trở cách,

Bao mơ màng hồn phách chẳng về.

Lâm cùng 33 đạo sĩ thạo nghề

76.     Đến kinh đô nhận t́m về hồn linh

Chạnh thương t́nh quân vương rầu rĩ,

Bèn sai ngay phương sĩ 34 t́m xa.

Phóng nhanh như chớp xẹt qua,

80.     Lên trời xuống đất xông pha khắp miền.

Kiếm đến tận Hoàng tuyền 35, Bích lạc, 36

Vẫn bặt tăm, khó nhọc triền miên,

Nghe trên biển có non tiên, 37

84.     Lửng lơ huyền ảo giữa miền hư vô

Mây ngũ sắc, lô nhô lầu gác,

Dáng thướt tha, toàn các tiên nương.

Thái Chân tên tự một nàng,

88.     Nhác trông phảng phất dung nhan cần t́m.

Người phương sĩ gơ lên then cổng,

Tiểu Ngọc liền nhờ giọng Song Thành, 38

Nghe tin sứ giả Hán đ́nh,

92.     Người trong trướng gấm giật ḿnh đứng lên.

Gạt gối tựa, chỉnh y, bối rối,

Vén rèm châu, vẹt lối ngân b́nh, 39

Vẻ ngái ngủ, tóc buông nghiêng,

96.     Hoa quan 40 đội lệch, gót sen xuống thềm.

Gió thoảng nhẹ, áo xiêm phất phới,

Như vẫn đang múa lối nghê thường.

Mặt hoa ủ dột lệ vương,

100.   Đóa lê dường đẫm mưa xuân trĩu cành.

Đượm vẻ buồn ngỏ t́nh cảm tạ.

Vĩnh biệt nhau đôi ngả héo hon.

Chiêu dương 41 ân ái không c̣n,

104.   Bồng lai 42 mới nếm trọn ḍng thời gian.

Quay nh́n xuống nhân hoàn 43 buổi ấy.

Bụi mịt mờ nào thấy Tràng An, 44

T́nh thâm c̣n chiếc thoa vàng,

108.   Với hoa tai lúc lên đàng vua trao.

Thoa một chiếc, hoa tai một chiếc, 45

Đều bằng vàng, ư quyết bền lâu.

Nguyền rằng trôi giạt đâu đâu,

112.   Cùng so kỷ vật t́m nhau đến cùng.

Lời ân cần thề chung lần cuối,

Riêng đôi bên biết với nhau thôi.

Điện Tràng sinh 46 chỉ hai người,

116.   Giữa đêm thất tịch 47 trao lời đinh ninh.

Trên trời xanh làm chim liền cánh,

Dưới đất cây liền nhánh không rời.

Đất trời có lúc đầy vơi,

120.   Hận ḷng dằng dặc muôn đời không nguôi…

 

 

Thái Trọng Lai  (dịch)

Việt Nam, 20.6.2008

 

 

Chú giải:

 

1. Mối hờn không nguôi: Mối trường hận của nàng Dương Quư phi đối với vua Đường Minh hoàng. Nhà vua thề nguyền yêu nàng muôn kiếp nhưng rồi lại phản bội lời thề, hạ lệnh thắt cổ nàng để ch́u ḷng đoàn quân hộ giá lánh nạn An Lộc Sơn.

2. Vua xứ Hán: Ám chỉ Đường Minh hoàng (cố ư gọi trệch v́  ... cầu an).

3. Gái đến th́: Nguyên văn “Sơ trưởng thành” (mới lớn). Xă hội phong kiến cho phép kết hôn ở tuổi “nữ thập tam, nam thập lục”. Nàng Dương Ngọc Hoàn khi được đón vào cung đă 14 tuổi (bấy giờ Đường Minh hoàng đă 54 tuổi).

4. Sáu cung: Chỉ chung toàn bộ nữ giới phục vụ hạnh phúc cho vua (hậu, phi, tần, tiệp dư, cung nữ).

5. Hoa thanh: Tên cung được xây riêng cho Dương Quư phi ở núi Ly sơn. Tại đấy có suối nước nóng (Hoa thanh tŕ) dành cho nàng tắm (Ly sơn thuộc huyện Lâm Đồng tỉnh Thiểm Tây, cách Tràng An không xa).

6. Ôn Tuyền: Suối nước nóng.

7. Mỡ đông: Nguyên văn “Ngưng chi” (mỡ nấu sôi để nguội) tả màu da ... siêu trắng của nữ giới.

8. Hoa phấn: Nói tắt cụm từ “Mặt hoa da phấn” chỉ dung nhan đẹp.

9. Hậu cung: Tức lục cung.

10. Điện vàng: Nguyên văn “kim ốc” (pḥng hoặc nhà nhỏ bằng vàng) người dịch chuyển nghĩa cho thích hợp tên gọi hoa mỹ chỉ nơi vua làm việc lẫn nghỉ ngơi. Nơi đây luôn có nữ giới túc trực.

11. Cắt đất: Đất đai trong thiên hạ đều là của vua, khi vua ban cho ai là “cắt ra” cho người ấy.

12. Ly cung: Cung lập ở Ly Sơn.

13. Nhạc tiên: Ám chỉ nhạc đệm cho điệu múa nghê thường vũ y, Đường Minh hoàng nghe được ở cung Quảng hàn (nguyệt cung).

14. Nghê thường: Gọi tắt tên nghê thường vũ y (xiêm màu cầu vồng, áo kết lông vũ). Tương truyền Đường Minh hoàng được đạo sĩ dùng phép thuật đưa lên nguyệt cung – Nhà vua được thưởng thức điệu múa ấy, đem về truyền lại cho đội văn nghệ cung đ́nh (Lê viên tử đệ).

15. Ngư dương: Nơi An Lộc Sơn khởi binh tạo phản.

16. Tây nam: Hướng đất Thục so với Tràng An.

17. Đường mây: Nguyên văn “vân sạn” chỉ loại đường ghép bằng cây gỗ (sạn) cheo leo bên vách núi lẫn trong mây (vân).

18. Kiếm các: Tên ngọn núi hiểm trở trên đường vào đất Thục, (nay thuộc huyện Kiếm các tỉnh Tứ Xuyên).

19. Nga Mi: Tên núi và tên huyện tỉnh Tứ Xuyên.

20. Hành cung: Cung lập ra ở các địa phương cho vua nghỉ ngơi trên đường đi tuần du.

21. Trời đất chuyển mau: Nguyên văn “thiên triền địa chuyển” ám chỉ việc đảo lộn vai tṛ của quân triều đ́nh với quân nổi loạn.

22. Mă ngôi: Tên ngọn đồi và tên trấn thuộc huyện Hưng B́nh tỉnh Thiểm Tây.

23. Hồ Thái dịch: Tức “Thái dịch tŕ” trong khuôn viên ngự uyển (nay thuộc khu vực đặc biệt của thành phố Bắc B́nh ở Thiểm Tây).

24. Cung Vi ương: Cung dành riêng cho việc vui chơi hưởng thụ của đế vương (tên Vị ương có nghĩa là “chưa được phân nửa” ngụ ư dù hưởng thụ đến mấy cũng vẫn thấy chưa thỏa thích).

25. Dư lệ: Nước mắt c̣n lại sau nhiều lần khóc trước đó.

26. Tây cung: Nơi ở của Dương Quư phi ở Tây uyển (khi chưa chạy loạn) cửa Tử cấm thành.

27. Lê viên: Tức Lê viên tử đệ (con em vườn lê), đội văn công của cung đ́nh, được Đường Minh hoàng trực tiếp chỉ đạo.

28. Tiêu pḥng: Pḥng ở của nữ giới trong cung cấm, vách có trát lẫn bột hồ tiêu cho ấm.

29. Chiêng trống: Những thứ dùng ban hiệu lệnh trong quân đội thời xưa khi điều khiển lực lượng lớn. Chi tiết này ngụ ư ḥa b́nh chưa thực văn hồi, kinh đô c̣n áp dụng chế độ quân quản.

30. Tinh hà: Chỉ ngân hà.

31. Uyên ương: Tên loài thủy cầm nhỏ hơn vịt, có tập tính sống gắn bó theo từng đôi trống mái. Ở đây dùng thi vị hóa mái ngói âm dương và tạo ấn tượng phụ họa cảnh cô đơn của vua.

32. Phỉ thúy: Tức chim trả, lông cánh có màu lục óng ánh. Ở đây chỉ loại chăn màu ấy và mục đích nhằm nhấn mạnh t́nh cảnh “rẽ thúy chia uyên” (kết hợp cùng chú thích 30).

33. Lâm cùng: Tên một huyện có thị trấn nổi danh của đất Thục. (Tác giả mượn làm nơi cư trú cho đạo sĩ hoàn toàn chỉ v́ đă có tác giả đầu đàn của văn học đời Hán là Tư Mă Tương Như từng đưa nàng Trác Văn Quân về đấy, mở quán rượu sinh nhai).

34. Phương sĩ: Đạo sĩ có biệt tài về phép thuật.

35. Hoàng tuyền: Suối vàng (ngụ ư nơi sâu nhất).

36. Bích lạc: Có nghĩa là “nơi dùng lại của màu biếc” tức trời xanh (ngụ ư cao nhất).

37. Non tiên: Núi có tiên ở (truyền thuyết kể rằng thật xa ngoài biển Đông có ba ngọn núi tiên là Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Nước biển ở đấy siêu nhẹ đến nỗi không đỡ được hạt cải, v́ vậy có tên là Nhược thủy, thuyền bè không đến được).

38. Tiểu Ngọc, Song Thành: Tên các tiên nữ cấp thấp làm nhiệm vụ trực ban.

39. Ngân b́nh: B́nh phong bằng bạc.

40. Hoa quan: Mũ đẹp.

41. Chiêu dương: Tên điện.

42. Bồng lai: Tên non tiên.

43. Nhân hoàn: Cơi người ở.

44. Tràng An: Nơi đóng đô của nhà Đường, nay là huyện Tràng An tỉnh Thiểm Tây. Sự phồn vinh nơi ấy biến tên riêng nọ thành tên chung để gọi chốn kinh kỳ.

45. Một chiếc: Ở đây ngụ ư là “nửa đôi”. Nhà vua tác ra cho đôi bên giữ làm của tin dễ t́m nhau.

46. Tràng sinh: Tên điện, ngụ ư “sống măi”.

47. Thất tịch: Đêm mồng 7 tháng 7 âm lịch. Tương truyền là Thiên đế chỉ cho phép Ngưu lang - Chức nữ gặp nhau dịp ấy nhờ có cầu ô thước (cầu chim quạ). Tất cả quạ ở trần gian phải bay lên trời cùng nhau bắc cầu, sau ngày ấy đầu quạ đều trọc (thực sự th́ đến tháng 7, đầu quạ rụng lông cỗi, mọc lông mới theo chu kỳ sinh học của loài ấy).

 

 

TƯ LIỆU BỔ SUNG

 

A. Về nội dung tác phẩm:

 

T́nh sử Đường Minh hoàng và Dương Quư phi là một đề tài được các giới thi nhân cùng nghệ sĩ khai thác ồ ạt, đặc biệt là trong lĩnh vực sử thoại (kể chuyện lịch sử ở các tụ điểm dân cư) và kịch nghệ (Kinh kịch, Việt kịch .v.v.). Trong số đó, thi phẩm trường thiên TRƯỜNG HẬN CA nổi tiếng hơn cả.

 

Dương Quư phi tên thật là Dương Ngọc Hoàn, tên tự là Thái Chân, mới đầu làm nữ đạo sĩ, được cưới làm vợ cho một hoàng tử nhưng ông bố chồng Đường Minh hoàng lập tức hủy quan hệ ấy để chuyển thành quan hệ hoàng đế - quư phi và cưng ch́u nàng tối đa, lưu lại vô số giai thoại lẫn huyền thoại.

 

Lịch sử c̣n kèm thêm một mối t́nh khác tuy có vẻ mập mờ trong chính sử nhưng lại biểu hiện quá ư lộ liễu trong thực tế quá khứ : mối t́nh Dương Quư phi – An Lộc Sơn.

 

An Lộc Sơn vốn là một “cường phiên” (thủ lĩnh vùng tự trị hùng mạnh thần phục triều đ́nh) được Đường Minh hoàng ưu ái phong làm Tiết độ sứ kiêm nhiệm ba trấn B́nh Lô, Phạm Dương và Hà Đông (vùng Sơn Tây ngày nay).

 

Bấy giờ, ngoài việc cai trị lănh thổ Trung Quốc, nhà Đường c̣n thôn tính và cai trị khắp bốn phương đông, tây, nam, bắc (trong đó có An Nam đô hộ phủ là Giao Châu, tiền thân của Việt Nam ngày nay. Các đô hộ phủ c̣n lại là An Tây: Tây Tạng – An Đông: Triều Tiên – An Bắc : Đột Quyết, Mông Cổ). V́ lẽ đó, triều đ́nh tích cực chủ trương thiên thiện, thậm chí c̣n ch́u chuộng, mua chuộc nữa. Yên trí v́ chính sách ấy, An Lộc Sơn rất siêng năng về chầu, nếm cuộc sống phong lưu chốn Tràng An rồi ... kết nghĩa mẹ con với Dương Quư phi (về mặt tuổi tác có lẽ phải là cha – con!).

 

Sự “có hiếu với mẹ nuôi” rất không b́nh thường của An Lộc Sơn thể hiện khá hoành tráng bằng việc sang tận Giao Châu t́m quả lệ chi (quả vải) về dâng mẹ (tính ra cuộc khứ hồi quanh co sông núi ấy dài không kém đi hết hết ṿng xích đạo!). Nhắc đến chi tiết này, nhà thơ Đỗ Mục (803 - 852) có hai câu:

 

Nhất kỵ hồng trần Phi tử tiếu,

Vô nhân tri thị lệ chi lai.

(Một vó bụi hồng Phi tủm tỉm

Không ai biết đấy lệ chi về)

 

Và giới sành điệu gọi lóng quả lệ chi là quả  “nhất kỵ hồng trần” !

 

Lại có giai thoại rất khó thừa nhận lẫn phủ nhận rằng có lần về chầu, An Lộc Sơn tiện đường ghé thăm “mẹ nuôi” và c̣n tắm ở ao Hoa thanh để gột bụi đường. Có người mách vua là mẹ nuôi đích thân săn sóc con tắm. Nhà vua bèn “ban thưởng” hậu hĩ cho người mẹ ... tận tụy mẫu mực ấy! Sự nuông ch́u quá lẽ ấy khiến An Lộc Sơn càng lộng, buộc Tướng quốc Dương Quốc Trung (anh ruột Dương Quư phi) phải ra tay can thiệp bằng biện pháp nghiêm ngặt. Kết quả là An Lộc Sơn nổi loạn uy hiếp cả hai kinh, triều đ́nh phải lánh nạn vào đất Thục (năm 755) và quân sĩ có cớ đ̣i giết Dương Quốc Trung và Dương Quư phi.

 

Phía An Lộc Sơn cũng bất hạnh không kém. Chiếm được hai kinh, An Lộc Sơn lên ngôi, tự xưng là Hùng Vũ hoàng đế, đổi tên nước là Yên quốc, nhưng ngay năm sau (756) con trai y là An Khánh Tự giết cha đoạt ngôi. Danh tướng Quách Tử Nghi thừa cơ tổng phản công thu phục được cả hai kinh, đón Đường Minh hoàng hồi loan.

 

Trước khi chạy loạn, Minh hoàng giao việc quản lư triều đ́nh cho con, nhưng khi trở về, người con không trả ngôi mà tiện thể chiếm luôn với niên hiệu Túc Tông (755 - 762).

 

Gần đây, báo chí Nhật Bản phao một tin lạ (chưa được công nhận hay phủ nhận) rằng Dương Quư phi bỉ xử giảo ở Mă Ngôi là người giả thế mạng, c̣n người thật th́ được bí mật đưa sang Nhật Bản rồi chết già trong cô đơn (có h́nh ảnh bia mộ làm bằng chứng!).

 

Tóm lại, nhà Đường (618 - 907) tồn tại 289 năm với 21 đời vua th́ riêng Huyền tông (tức Đường Minh hoàng) trị v́ 42 năm là vua ở ngôi dài nhất. V́ vậy, hai niên hiệu của nhà vua (Khai nguyên – Thiên bảo) chứa nhiều “dị sự” (chuyện để lại sau khi qua đời) được truyền tụng nhiều nhất mà cũng khó phân biệt thực giả nhất.

 

B. Về hành trạng tác giả:

 

Bạch Cư Dị (772 - 846) người Thái Nguyên (một phủ thuộc tỉnh Sơn Tây ngày nay). Tên ông có dính dáng đến câu tục ngữ đương thời “Tràng An cư bất dị” (chốn kinh kỳ ở được chẳng dễ). Mặc dầu ông phản bác câu ấy qua cách đặt tên như thế cho ḿnh nhưng rồi cuối cùng bản thân ông lại buộc phải thừa nhận nó.

 

Ông đỗ tiến sĩ năm 17 tuổi, làm quan trong triều (Hàn lâm học sĩ) rồi phạm tội bị giáng chức, chuyển đi làm Tư mă Cữu giang (vào đời Đường, chức ấy không c̣n là chỉ huy cao cấp như thời Xuân thu mà chỉ là tên lóng gọi chức Đồng tri phủ, làm trợ lư cho Tri phủ). Tội danh ông bị gán h́nh như chỉ thấy trong h́nh luật đời Đường, đó là tội “ngỗ phạm quyền quí”  (xấc xược với bậc quyền quí) là thứ tội vô cùng mông lung, những cái miệng “có gang có thép” tha hồ khép tội bừa băi thế nào cũng được, thế nhưng vẫn đủ sức thổi bay một “triều quan” như họ Bạch về góc bể chân trời làm trợ lư cho một viên Tri phủ vô danh ở cái nơi mà ông cảm khái là:

 

Chốn cùng tịch ấy ai vui thích,

Tai chẳng nghe đàn địch cả năm

                   (T́ bà hành - Bạch Cư Dị)

 

Và:                       Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,

                             Quyên kêu sầu, vượn hót nỉ non…

                                                          (Bdd)

 

Người ta “cư bất dị” v́ giá sinh hoạt củi quế gạo châu c̣n bản thân ông th́ lại v́ không chịu nổi cảnh luồn cúi giới quư tộc để bị giới ấy coi ông như hạt bụi trong mắt, mặc dầu ông đă mềm mỏng cam phận bằng cái tên tự Lạc Thiên (vui với số mệnh).

 

Về già, ông thường ngao du sơn thủy bằng đ̣ dọc nên đi được khá nhiều nơi, cuối cùng dừng chân ở Hương Sơn (nay đổi tên Trung Sơn để đánh dấu quê hương nhân vật lịch sử đă lập ra Dân quốc) một huyện thuộc tỉnh Quảng Đông. Thế là ông chào đời ở Sơn Tây (Thái Nguyên) giữa đời sống ở Thiểm Tây (Tràng An) rồi cuối đời về sống ở Quảng Đông (Hương Sơn) đúng như ông đă tự nhận là “thiên nhai luân lạc nhân” (kẻ trôi giạt chân trời - chữ dùng trong T́ bà hành). Ông qua đời ở tuổi 74 trong biệt hiệu Hương Sơn cư sĩ.

 

Ngót mười hai thế kỉ nay, Trường hận ca và T́ bà hành của ông được các nhà nho “sành điệu” ở Việt Nam thưởng thức say mê đến độ “thấm sâu ba tấc” như cách nói của người Trung Quốc.

 

 

 

 

Hoa Thanh Cung:  Nơi Đường Minh Hoàng và Dương Quư Phi nghỉ mát va tắm nước suối nóng

 

 

 

 

Tượng Dương Quư Phi

 

Photography by Mr. Hiep Vinh Vuong during a trip to XiAn, ShanXi, China

 

 

 

 

 

 

*** 投稿電子郵件請寄 ***

Bài vở & h́nh ảnh xin gởi về Ban Phụ Trách KHAIMINH.ORG

 

VanNgheGiaiTri@KhaiMinh.org

 

 

 

 Copyright © 2004 - 2008  KHAIMINH.ORG  |  Website Disclaimer