T̀ BÀ HÀNH  -  琵琶行

 

 

 

 

*   琵琶语  *

 

 

 

 

 

 

Nguyên tác

 

元和十年,予左遷九江郡司馬。明年秋,送客湓浦口。聞舟船中夜彈琵琶者,聽其音,錚錚然,有京都聲。問其人,本長安倡女,嘗學琵琶於穆曹二善才。年長色衰,委身為賈人婦。遂命酒,使快彈數曲。曲罷,憫然自敘少小時歡樂事;今漂淪憔悴,轉徙於江湖間。余出官二年,恬然自安,感斯人言,是夕始學有遷謫意,因為長句,歌以贈之。凡六百一十六言,命曰:「琵琶行。」

 

 

琵琶行

 

白居易

 

潯陽江頭夜送客,楓葉荻花秋瑟瑟。
主人下馬客在船,舉酒欲飲無管弦。
醉不成歡慘將別,別時茫茫江浸月。
忽聞水上琵琶聲,主人忘歸客不發。
尋聲暗問彈者誰,琵琶聲停欲語遲。
移船相近邀相見,添酒回燈重開宴。
千呼萬喚始出來,猶抱琵琶半遮面。
轉軸撥弦三兩聲,未成曲調先有情。
弦弦掩抑聲聲思,似訴平生不得志。
低眉信手續續彈,說盡心中無限事。
輕攏慢□抹復挑,初為霓裳后六

大弦嘈嘈如急雨,小弦切切如私語。
嘈嘈切切錯雜彈,大珠小珠落玉盤。
間關鶯語花底滑,幽咽泉流冰下難。
冰泉冷澀弦凝絕,凝絕不通聲漸歇。
別有幽愁暗恨生,此時無聲勝有聲。
銀瓶乍破水漿迸,鐵騎突出刀槍鳴。
曲終收撥當心畫,四弦一聲如裂帛。
東船西舫悄無言,唯見江心秋月白。
沉吟放撥插弦中,整頓衣裳起斂容。
自言本是京城女,家在蝦蟆陵下住。
十三學得琵琶成,名屬教坊第一部。
曲罷曾教善才伏,妝成每被秋娘妒。
五陵年少爭纏頭,一曲紅綃不知數。
鈿頭云篦擊節碎,血色羅裙翻酒污。
今年歡笑復明年,秋月春風等閑度。
弟走從軍阿姨死,暮去朝來顏色故。
門前冷落車馬稀,老大嫁作商人婦。
商人重利輕別離,前月浮梁買茶去。
去來江口守空船,繞船月明江水寒。
夜深忽夢少年事,夢啼妝淚紅闌干。
我聞琵琶已嘆息,又聞此語重唧唧。
同是天涯淪落人,相逢何必曾相識!
我從去年辭帝京,謫居臥病潯陽城。
潯陽地僻無音樂,終歲不聞絲竹聲。
住近湓江地低濕,黃蘆苦竹繞宅生。
其間旦暮聞何物,杜鵑啼血猿哀鳴。
春江花朝秋月夜,往往取酒還獨傾。
豈無山歌與村笛,嘔啞嘲哳難為聽。
今夜聞君琵琶語,如聽仙樂耳暫明。
莫辭更坐彈一曲,為君翻作琵琶行。
感我此言良久立,卻坐促弦弦轉急。
淒淒不似向前聲,滿座重聞皆掩泣。
座中泣下誰最多?江州司馬青衫濕。

 

 

琵琶行

 

白居易

 

浔阳江头夜送客,枫叶荻花秋瑟瑟。

主人下马客在船,举酒欲饮无管弦。

醉不成欢惨将别,别时茫茫江浸月。

忽闻水上琵琶声,主人忘归客不发。

寻声暗问弹者谁?琵琶声停欲语迟。

移船相近邀相见,添酒回灯重开宴。

千呼万唤始出来,犹抱琵琶半遮面。

转轴拨弦三两声,未成曲调先有情。

弦弦掩抑声声思,似诉平生不得志。

低眉信手续续弹,说尽心中无限事。

轻拢慢捻抺复挑,初为霓裳后六幺。

大弦嘈嘈如急雨,小弦切切如私语。

嘈嘈切切错杂弹,大珠小珠落玉盘。

间关莺语花底滑,幽咽泉流冰下难。

冰泉冷涩弦凝绝,凝绝不通声暂歇。

别有幽愁暗恨生,此时无声胜有声。

银瓶乍破水浆迸,铁骑突出刀枪鸣。

曲终收拨当心画,四弦一声如裂帛。

东船西舫悄无言,惟见江心秋月白。

沉吟放拨插弦中,整顿衣裳起敛容。

自言本是京城女,家在虾蟆陵下住。

十三学得琵琶成,名属教坊第一部。

曲罢曾教善才服,妆成每被秋娘妒。

五陵年少争缠头,一曲红绡不知数。

钿头银篦击节碎,血色罗裙翻酒污。

今年欢笑复明年,秋月春风等闲度。

弟走从军阿姨死,暮去朝来颜色故。

门前冷落车马稀,老大嫁作商人妇。

商人重利轻别离,前月浮梁买茶去。

去来江口守空船,绕船月明江水寒。

夜深忽梦少年事,梦啼妆泪红阑干。

我闻琵琶已叹息,又闻此语重唧唧。

同是天涯沦落人,相逢何必曾相识!

我从去年辞帝京,谪居卧病浔阳城。

浔阳地僻无音乐,终岁不闻丝竹声。

住近湓城地低湿,黄芦苦竹绕宅生。

其间旦暮闻何物?杜鹃啼血猿哀鸣。

春江花朝秋月夜,往往取酒还独倾。

岂无山歌与村笛?呕哑嘲哳难为听。

今夜闻君琵琶语,如听仙乐耳暂明。

莫辞更坐弹一曲,为君翻作琵琶行。

感我此言良久立,却坐促弦弦转急。

凄凄不似向前声,满座重闻皆掩泣。

座中泣下谁最多?江州司马青衫湿。

 

 

 

 

 

Phiên âm

 

T̀ BÀ HÀNH

 

Bạch Dị

 

Nguyên Ḥa thập niên, dư tả thiên Cửu giang quận Tư mă. Minh niên thu, tống khách Bồn phố khẩu. Văn chu thuyền trung dạ đàn t́ bà giả, thính kỳ âm tranh tranh nhiên hữu kinh đô thanh. Vấn kỳ nhân, bản Tràng an xướng nữ, thường học t́ bà ư Mục Tào nhị thiện tài. Niên trưởng sắc suy, ủy thân vi cổ nhân phụ. Toại mệnh tửu, sử khoái đàn sổ khúc.

 

Khúc băi, mẫn nhiên tự tự thiếu tiểu thời hoan lạc sự, kim phiêu luân tiều tụy, chuyển tỉ ư giang hồ gian.

 

Dư xuất quan nhị niên, điềm nhiên tự an, cảm tư nhân ngôn, thị tịch thủy học hữu thiên trích ư – Nhân vi trường cú ca dĩ tặng chi, phàm lục bách nhất thập lục ngôn, mệnh viết “T́ bà hành”.

 

*

*      *

 

 

Tầm dương giang đầu dạ tống khách.

Phong diệp địch hoa thu sắc sắc,

Chủ nhân hạ mă khách tại thuyền,

4.       Cử tửu dục ẩm vô quản huyền.

Túy bất thành hoan thảm tương biệt,

Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt.

Hốt văn thủy thượng t́ bà thanh,

8.       Chủ nhân vong qui, khách bất phát.

Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy,

T́ bà thanh đ́nh dục ngữ tŕ.

Di thuyền tương cận yêu tương kiến,

12.     Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến.

Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai,

Do băo t́ bà bán gà diện.

Chuyển trục bát huyền tam lưỡng thanh,

16.     Vị thành khúc điệu tiên hữu t́nh.

Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ,

Tự tố sinh b́nh bất đắc chí.

Đê mi tín thủ tục tục đàn,

20.     Thuyết tận tâm trung vô hạn sự.

Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu,

Sơ vi nghê thường hậu lục yêu,

Đại huyền tào tào như cấp vũ,

24.     Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ.

Tào tào thiết thiết thác tạp đàn,

Đại châu tiểu châu lạc ngọc bàn.

Nhàn quan oanh ngữ hoa để hoạt,

28.     U yết lưu tuyền thủy hạ than.

Thủy tuyền lănh sáp huyền ngưng tuyệt,

Ngưng tuyệt bất thông thanh tiệm yết.

Biệt hữu u sầu ám hận sinh,

32.     Thử thời vô thanh thắng hữu thanh.

Ngân b́nh sạ phá thủy tương b́nh,

Thiết kỵ đột xuất đao thương minh.

Khúc chung thu bát đương tâm hoanh,

36.     Tú huyền nhất thanh như liệt bạch.

Đông thuyền tây phỏng tiệu vô ngôn,

Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch.

Trầm ngâm phóng bát tháp huyền trung,

40.     Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung.

Tự ngôn bản thị kinh thành nữ,

Gia tại Hà mô lăng hạ trú

Thập tam học đắc t́ bà thành,

44.     Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ.

Khúc băi thường giao thiện tài phục,

Trang thành mỗi bị thu nương đố.

Ngũ lăng niên thiếu tranh triền đầu,

48.     Nhất khúc hồng tiêu bất tri số.

Điều đầu ngân bí kích tiết toái,

Huyết sắc la quần phiên tửu ố.

Kim niên hoan tiếu phục minh niên,

52.     Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ.

Đệ tẩu ṭng quân a di tử,

Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố.

Môn tiền lănh lạc xa mă hy,

56.     Lăo đại giá tác thương nhân phụ.

Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly,

Tiền nguyệt Phù lương măi trà khứ,

Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền

60.     Nhiễu thuyền minh nguyệt giang thủy hàn.

Dạ thâm hốt ức thiếu niên sự,

Mộng đề trang lệ hồng lan can.

Ngă văn t́ bà dĩ thán tức,

64.     Hựu văn thử ngữ trùng tức tức.

Đồng nhị thiên nhai luân lạc nhân,

Tương phùng hà tất tằng tương thức.

Ngă ṭng khứ niên từ đế kinh,

68.     Trích cư ngọa bệnh Tầm dương thành.

Tầm dương địa tịch vô âm nhạc,

Chung tuế bất văn ti trúc thanh.

Trú cận Bồn thành địa đê thấp,

72.     Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh.

Kỳ gian nhật mộ văn hà vật ?

Đỗ quyên đề huyết viên ai minh,

Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ,

76.     Văng văng thủ tửu hoàn độc khuynh.

          Khởi vô sơn ca dữ thôn địch ?

Âu á trào tích nan vi thinh.

Kim dạ văn quân t́ bà ngữ,

80.     Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh.

Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc,

Vị quân phiên tác t́ bà hành.

Cảm ngă thử ngôn lương cửu lập,

84.     Khước tọa xúc huyền huyền chuyển cấp.

Thê thê bất tự hướng tiền thanh,

Măn ṭa trùng văn giai yểm khấp.

Ṭa trung khấp hạ thùy tối đa ?

88.     Giang châu Tư mă thanh sam thấp.

 

 

Thái Trọng Lai  太重来  (dịch)

 

 

 

 

 

 

 

 

Dịch nghĩa:

 

Năm Nguyên Ḥa 10 1 ta bị biếm chức đi làm 2 quận Cửu giang 3. Mùa thu năm sau đi tiễn kháchcửa sông Bồn 4 nghe trong thuyền kẻ gảy đàn 5, tiếng đàn cứng cát (nghe) giọng kinh đô. Hỏi đến người th́ vốn gái ca xướngTràng an từng học đànhai thiện tài 6 hộ Mục họ Tào. (Nay) tuổi lớn sắc suy, nương thân làm vợ người lái buôn. (Ta) bèn sai dọn rượu, bảo (nàng) mau đàn cho vài khúc. Đàn xong (nàng) tự kể lể các việc hoan lạc thời trẻ, nay (phải) trôi nổi héo hon, chuyền thành kẻ nhỡ chốn giang hồ.

 

Ta bị giáng chức đă hai năm, đă điềm nhiên an phận (nay) xúc động lời lẽ ấy của nàng, đêm ấy mới bắt đầu học được ư nghĩa về cảnh ngộ lưu đày, nhân đấy làm bài trường ca ngâm tặng nàng, dài 616 lời, đặt T̀ BÀ HÀNH.

 

*

*      *

 

 

Tiễn khách ở đầu sông Tầm dương 7 vào ban đêm,

Lá phong 8, hoa lau, hơi thu se sắt.

Chủ nhân xuống ngựa (cùng) khách ngồi vào thuyền.

4.       Nâng chén rượu muốn uống (mà) không có tiếng tơ trúc

Say không thành vui (do) buồn thảm v́ cùng ly biệt,

Lúc ly biệt, trăng tắm trong sông mênh mông.

Bỗng nghe trên sông có tiếng (đàn) t́ bà,

8.       Chủ nhân quên về, khách không ra đi.

T́m theo tiếng đàn lén hỏi người đàn là ai.

Tiếng t́ bà ngừng, muốn đáp nhưng c̣n chờ,

(Ta) dời thuyền gần nhau, yêu cầu gặp nhau,

12.     (Lấy) thêm rượu, thắp lại đèn mở tiệc lần nữa.

Ngh́n gọi muôn réo mới xuất hiện,

C̣n ôm đàn t́ bà che nửa mặt.

Vặn trục gảy đàn vài ba tiếng,

16.     Chưa thành khúc điệu mà nghe đă có t́nh.

Ư tứ của từng tiếng ếm nén vào từng dây đàn.

Như bày tỏ nỗi bất đắc chí 9 cả đời nàng.

Chau mày quen tay gảy tiếp tục,

20.     Nói hết chuyện buồn vô hạn trong ḷng.

Nhẹ nhàng khoan thai gảy rồi khêu 10

Mới đầu là khúc nghê thường, tiếp sau là khúc lục yêu.

Dây lớn (nghe) rào rào như mưa gấp,

24.     Dây nhỏ (nghe) thiết tha như nói chuyện riêng.

Rào rào thiết tha đàn lẫn lộn nhau,

(Như có) ngọc lớn ngọc nhỏ rơi xuống mâm ngọc.

(Như) oanh hót líu lo tít trong luốn hoa cao thấp quanh co

28.     (Như) nước suối róc rách chảy xuống băi cát ven sông.

(Như) nước suối lạnh chảy chậm lại, dây đàn ngừng dứt,

Ngừng dứt không thông, tiếng dần ngớt.

(Nghe) đặc biệt u sầu, sinh ra nỗi oán ngầm.

32.     Lúc bấy giờ không có tiếng (đàn) hay hơn có tiếng (đàn)

B́nh bạc chợt vỡ nước bắn tung tóe,

Quân thiết kỵ 11 xộc ra tiếng đao thương khua vang. 12

Xong khúc đàn, thu hết tâm hồn gảy ra một vạch,

36.     Bốn dây góp chung một tiếng như xé lụa.

Thuyền bên đông ghe bên tây lặng lẽ không tiếng nào,

Chỉ thấy trăng thu trắng toát ḷng sông.

(Nàng) trầm ngâm giắt que gảy 13 vào dây đàn,

40.     Chỉnh đốn áo xiêm đứng lên nghiêm vẻ mặt.

Tự nói (ḿnh) vốn là gái kinh thành,

Nhà ở chân g̣ Ễnh ương.

Tuổi mười ba đă học lành nghề đàn t́ bà

44.     Tên được ghi vào nhóm đầu của nơi dạy đàn.

Mỗi lần đàn xong một khúc đều làm giới thiện tài khâm phục

Mỗi lần trang điểm xong đều bị các nàng gái đẹp ghen tị.

Đám trai trẻ ở Ngũ lăng 14 tranh nhau quấn lên đầu (nàng)

48.     Cứ mỗi bản đàn là không đếm xiết số dải lụa hồng. 15

Hoa điền 16 lược bạc gơ nhịp găy cả.

Quần lụa màu huyết dụ của nàng bị rượu vẩy lên làm ố.

Năm nay vui cười rồi lại năm sau,

52.     Trăng thu gió xuân 17 đều không quan tâm.

Em trai ṭng quân, bà d́ chết,

Chiều đi sớm đến 18 nhan sắc cũ đi.

Trước cổng ngựa xe lèo tèo ít dần

56.     Già cả gả làm vợ lái buôn.

Lái buôn đặt nặng lợi lộc coi nhẹ biệt ly,

Tháng trước đă đi Phù lương mua trà.

Đi rồi (thiếp) giữ thuyền trống ở cửa sông,

60.     Quanh thuyền (là) trăng sáng, nước sông lạnh.

Đêm sâu chợt mơ chuyện thời tuổi trẻ,

Khóc trong mơ làm nước mắt ràn rụa nḥe đỏ màu trang điểm.

Ta nghe (tiếng đàn) t́ bà đă xót xa,

64.     Lại nghe những lời ấy làm tấm tức lần nữa.

Cùng là người lưu lạc chân trời,

Gặp nhau (là thân quen rồi) cần ǵ phải từng biết nhau.

Ta giă từ kinh vua từ năm ngoái,

68.     Bị lưu đầy ốm mẹp ở thành Tầm dương.

Tầm dương chốn quê mùa không có âm nhạc,

Cả năm không có tiếng tơ trúc.

Trú khề Bồn thành đất ẩm thấp

72.     Lau vàng vơ, trúc c̣i cọc mọc quanh nhà.

Ở đấy sáng chiều (nào) nghe vật ǵ đâu ?

Đỗ quyên 19 kêu rỏ máu, vượn hót buồn thảm.

Buổi sáng nh́n hoa sông xuân, ban đêm nh́n trăng thu,

76.     Thường thường lấy rượu ra rót một ḿnh.

Há chẳng có tiếng ca miền núi, tiếng sáo trong thôn xóm.

(Nhưng) ngọng nghịu líu lo khó nghe.

Đêm nay nghe tiếng t́ bà của nàng nói lên,

80.     Như nghe nhạc tiên tai mới tạm nghe được.

Đừng từ giă, hăy ngồi lại đàn một khúc

V́ nàng, ta dịch nó làm bài thơ t́ bà.

(Nàng) cảm kích lời ấy nên đứng thật lâu,

84.     Rồi ngồi gảy thoăn thoắt dây nọ dây kia.

(Nghe) tê tái không giống tiếng (đàn) lúc năy.

Đám người ngồi nghe đều che (tay áo) khóc.

Trong đám ấy ai khóc nhiều nhất ?

88.     Viên Tư mă châu Cửu giang ướt đẫm áo xanh.

 

 

Chú thích nguyên tác:

 

1.      Nguyên ḥa: Niên hiệu Đường Hiến Tông (806-820) Nguyên Ḥa 10 tức 816.

2.      Tư mă: Thời cổ đấy là chức tổng quản quân đội. Thời Đường chỉ là chức Đồng tri phủ.

3.      Cửu giang: Một huyện thuộc tỉnh Giang Tây.

4.      Sông Bồn: C̣n có tên khác là Long Khai, phát nguyên từ núi Thanh Bồn huyện Thụy Xương tỉnh Giang Tây.

5.      T́ bà: Loại đàn 4 dây, thùng đàn có h́nh giọt nước, đầu đàn cong găy xiên về phía sau.

6.      Thiện tài: Nhạc công giỏi.

7.      Tầm dương: Tên sông ở Giang Tây.

8.      Lá phong: Lá bàng, ở mùa thu, lá vàng nhiễm sương biến ra đỏ rất đặc trưng.

9.      Bất đắc chí: Không hoàn thành được chí nguyện cả đời.

10.  Gảy rồi khêu: Chơi đàn t́ bà người ta dùng que cứng và dẻo, đánh tới là gảy, móc lui là khêu (tương tự chơi đàn ghi ta)

11.  Thiết kỵ: Lính kỵ mă tinh nhuệ.

12.  Đao thương: Loại khí giới như mă tấu nhưng cán dài (đại đao) cùng giáo búp đa (thương).

13.  Que gảy: Vật dụng chơi đàn thường chuốt bằng cật tre hoặc xương, sừng. Lúc không đàn, người ta giắt ngang vào cây đàn.

14.  Ngũ lăng: Năm g̣ cao ở Tràng An, nơi qui tụ nhiều nhà cao cửa lớn của giới quyền quí.

15.  Dải lụa hồng: Dải lụa mỏng màu đỏ của đoàn ca nhạc bán cho khách thưởng thức dùng quấn lên đầu nhạc công để thưởng tài đàn. (Ban tổ chức dựa vào số dải lụa ấy tính thù lao).

16.  Hoa điền: Nguyên văn “Điền đầu” chỉ loại trâm có chạm hoa.

17.  Trăng thu gió xuân: Ám chỉ t́nh cảm và tuổi tác.

18.  Chiều đi sớm đến: Chỉ thời gian trôi nhanh.

19.  Đỗ quyên: Cũng gọi là đỗ vũ, tử qui, quốc, cuốc ... Loài chim sống từng đôi trống mái ở ven đầm nước. Khi mất bạn chúng đều kêu cho đến lúc kiệt sức, thổ huyết rồi chết.

 

 

(Chú ư: Phần dịch nghĩa này được thực hiện cốt làm nổi bật nét tài hoa của người dịch thơ (Phan Huy Chú) xin đơn cử trường hợp sau:

 

- Ở câu 77 (Khởi vô sơn ca dữ thôn  địch), Bạch Cư Di bảo rằng ḿnh vẫn được nghe lời ca tiếng sáo nhưng không thỏa măn nhu cầu thưởng thức nghệ thuật như khi nghe tiếng đàn t́ bà của người cựu kỹ nữ trôi giạt về bến Tầm dương.

 

Cách nói ấy của Bạch Cư Dị chỉ đạt sức thuyết phục mới phân nửa, bởi “sơn ca thôn địch” có khi c̣n xuất sắc hơn những ǵ các “kinh thành nữ” trổ tài nếu nó được hát lên, thổi lên để bày tỏ nỗi niềm tâm sự của những cao nhân ẩn sĩ tài hoa hay của những tao nhân mặc khách c̣n chờ thời hay đă hết thời (như trường hợp nàng cựu kỳ nữ ?).

 

Khi Phan Huy Thực chuyển ư ấy ra “ca rừng địch nội” là ám chỉ đám tiều phu cùng mục đồng. Họ thường ít học hay thất học, lại quê mùa, chưa hề lịch lăm giang hồ. Giới ấy chỉ cần biết hát cho vui, thổi cho kêu, chả cần trau dồi tài nghệ ở bất cứ “giáo phường” nào.

 

Chuyển “núi” ra “rừng”, “thôn xóm” ra “đồng nội” là cách xử lư tuyệt khéo, v́ xưa nay “sơn - lâm” và “thôn – dă” vốn là những từ ghép khá hữu cơ.

 

Với “ca rừng địch nội”, Phan Huy Thực đă đạt đến đỉnh cao của tinh thần “Dịch là sáng tác lại lần nữa” theo cách nói của người phương Tây hay là “nâng tác phẩm lên tầm cao mới” (như cách nói hôm nay).

 

 

Thái Trọng Lai  太重来  (dịch)

 

 

 

 

 

 

 

 

Dịch thơ

 

T̀ BÀ HÀNH 1

 

 

Bến Tầm dương canh khuya đưa khách,

Quạnh hơi thu, lau lách đ́u hiu.

Người xuống ngựa, khách dừng chèo,

4.       Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti.

Say nhưng luống ngại khi chia rẽ,

Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.

Tiếng t́ nghe vẳng bên sông,

8.       Chủ quên quay lại, khách dùng dằng xuôi.

Lần  tiếng sẽ hỏi ai đàn tá? 2

Dừng dây tơ, nấn ná 3 làm thinh.

Dời thuyền ghé hỏi thăm t́nh, 4

12.     Chong đèn, thêm rượu c̣n dành tiệc vui.

Mời mọc măi, thấy người bỡ ngỡ,

Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.

Vặn đàn mấy tiếng dạo qua,

16.     Dẫu chưa nên khúc t́nh đà thoảng hay.

Nghe năo ruột mấy dây buồn bực,

Dường than niềm tấm tức 5 bấy lâu.

Mày chau tay gảy khúc sầu,

20.     Dăi bày mấy nỗi trước sau muôn vàn.

Ngón buông, bắt, khoan khoan, d́u dặt,

Trước nghê thường, sau thoắt lục yêu.

Dây to dường đổ mưa rào

24.     Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng.

Tiếng cao thấp lựa xen lầy gảy,

Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu.

Trong hoa oanh ríu rít nhau,

28.     Suối tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh.

Nước suối lạnh, dây mành 6 ngừng dứt,

Ngừng dứt nên phút bặt tiếng tơ.

Âm thầm đau giận ngẩn ngơ,

32.     Tiếng tơ lặng ngắt, bấy giờ càng hay.

B́nh bạc vỡ tuôn đầy mạch nước,

Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao.

Cung đàn trọn khúc thanh tao,

36.     Tiếng buông xé lụa lựa vào bốn dây.

Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,

Một vầng trăng trong vắt ḷng sông.

Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,

40.     Áo xiêm khép nép hầu mong dăi lời.

Rằng : “Xưa vốn là người Kẻ chợ, 7

Cồn Hà mô thú ở lân la.

Học đàn từ thuở mười ba,

44.     Giáo phường 8 đệ nhất, chỉ 9 đà chép tên.

Gă thiện tài sợ phen dừng khúc,

Ả thu nương ghen tức điểm tô.

Ngũ lăng chàng trẻ ganh đua,

48.     Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn.

Vành lược bạc găy tan nhịp gơ,

Mảnh quần hồng hoen ố rượu rơi.

Năm năm lần lữa 10 vui cười,

52.     Mảng 11 trăng gió chẳng đoái hoài xuân thu.

Buồn em trẩy, 12 lại lo d́ thác,

Sầu hôm mai, đổi khác h́nh dong.

Cửa ngoài xe ngựa vắng không,

56.     Thân già mới kết duyên cùng khách thương.

Khách trọng lợi, coi thường ly cách,

Mải 13 buôn chè, sớm tếch nguồn khơi.

Thuyền không, đậu bến mặc ai,

60.     Quanh thuyền trăng dăi nước trôi lạnh lùng.

Đêm khuya sực nhớ ṿng tuổi trẻ,

Lệ trong mơ hoen vẻ phấn son.

Nghe đàn ta đă chạnh buồn,

64.     Lại rầu nghe nỗi nỉ non 14 mấy lời.

Cùng một lứa bên trời lận đận,

Gặp gỡ nhau lọ 15 sẵn quen nhau.

Từ xa kinh khuyết 16 bấy lâu,

68.     Tầm dương đất trích 17 gối sầu 18 hôm mai.

Chốn cùng tịch 19 không bài vui thích,

Tai chẳng nghe đàn địch cả năm.

Sông Bồn gần chốn cát lầm, 20

72.     Lau vàng trúc vơ gót thầm 21 quanh hiên.

Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,

Quyên kêu sầu, vượn hót nỉ non.

Hoa xuân nở, nguyệt thu tṛn,

76.     Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng.

Há chẳng có ca rừng, địch nội, 22

Giọng líu lo buồn nỗi khó nghe.

T́ bà nghe vẳng canh khuya,

80.     Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.

Hăy ngồi lại gảy chơi khúc nữa,

Sẽ v́ nàng soạn sửa bài ca.

Đứng lâu dường cảm lời ta,

84.     Lại ngồi lựa phím, đàn đà kíp dây.

Nghe năo nuột khác tay đàn trước,

Khắp tiệc hoa tuôn nước lệ rơi.

Lệ ai chan chứa hơn người?

88.     Giang châu 23 Tư mă đẫm mùi 24 áo xanh. 25

 

 

 

Phan Huy Thực 26   (dịch thơ)

Thái Trọng Lai  (dịch nghĩa chú thích)

Việt Nam, 01.12.2009

 

 

Chú thích dịch thơ:

 

1.      T́ bà hành : Bài thơ dài cảm tác về cuộc đời trôi nổi của người kỹ nữ gảy đàn t́ bà cùng t́nh cảnh trôi nổi của tác giả.

2.      : Trợ từ trong tiếng cổ đặt cuối câu tương tự “nhỉ”, “thế nhỉ”.

3.      Nấn ná : Cố ư kéo dài thời gian.

4.      Hỏi thâm t́nh : Ḍ la t́nh h́nh.

5.      Tấm tức : Bực bội trong ḷng.

6.      Dây mành : Dây tơ.

7.      Kẻ chợ : Kinh thành (tiếng cổ).

8.      Giáo phường : Tập thể qui tụ những kẻ tạu giáo cầm sa.

9.      Chỉ : Giấy. Ở đây có thể hiểu là danh sách, chứng từ.

10.  Năm năm : Năm này sang năm khác.

11.  Mảng : Ham măi không thôi.

12.  Trẩy : Đi xa đến nơi đông đúc (trẩy hội, trẩy kinh).

13.  Mải : Mê theo một công việc, quên hết mọi việc khác.

14.  Nỉ non : Than thở tỉ tê.

15.  Lọ : Chả cần phải ... (tiếng cổ).

16.  Kinh khuyết : Chỉ kinh đô (khuyết là vọng lâu trên cổng hoàng thành).

17.  Đất trích : Địa phương quản lư quan lại bị giáng chức.

18.  Gối sầu : Tựa đầu lên mối sầu, ngụ ư t́nh cảnh “ngọa bệnh” của tác giả.

19.  Cùng tịch : Hết sức quê mùa.

20.  Cát lầm : Bùn lầy lấm láp.

21.  Gót thầm : Dạo bước trong lặng lẽ tịch mịch.

22.  Địch nội : Tiếng sáo ngoài đồng (tức tiếng sáo mục đồng).

23.  Giang Châu : Châu Cửu giang (gọi tắt).

24.  Mùi : Màu (tiếng cổ).

25.  Áo xanh : Áo thường phục (không phải lễ phục) ngụ ư chức quan Tư mă của tác giả “không bận” lắm.

26.  Phan Huy Thực (1778-1884): Là người Hà Tĩnh, con của Phan Huy Ích, em Phan Huy Chú, làm quan thời Gia Long đến chức Thượng thư bộ lễ. Đă có thời người ta coi bản dịch này là của Phan Huy Vịnh (1800-1870) con trai ông.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

***  投稿電子郵件請寄 ***

Bài vở & h́nh ảnh xin gởi về Ban Phụ Trách KHAIMINH.ORG

 

VanNgheGiaiTri@KhaiMinh.org

 

 

 

 

啓明网站  |  Copyright © 2004 – Present   KHAIMINH.ORG  |  Website Disclaimer