Ghi chú dẫn
nhập của KHAIMINH.ORG: Tiếu Phật 笑佛
là bút hiệu của cố giáo sư Lê Nguyên 黎元老師. Chi Nhất
之一 là biệt danh
của cựu giáo sư Ngô văn Lại 吳文賴老師.

THƠ TIẾU PHẬT
Muốn đổ
đi một xô nước, người ta phải chọn cho được một chỗ đất cát hút ẩm. Tâm hồn nhà thơ Tiếu Phật là một xô nước như thế, đầy ắp và luôn sóng
sánh, gợn sóng nhưng quanh ông là một khu vực trải nhựa phẳng ĺ, ông chỉ có thể đổ từng chút bằng những bài thơ và để mặc cho nó bốc
hơi.
Nghĩa là ông trút tâm sự một cách vô vọng.
Sau đây
là hai lần trút ấy:
I.
“LỮ
THỨ THƯ CẢM”

黎元
一九五八年七月於西貢
(Nhất cửu ngũ bát niên thất nguyệt ư Tây cống)
Mi giang thu sắc liễu vô ngân,
Thặng giác càn khôn bán oán ân.
U kính thảo thâm mê liễu
nhứ,
Hoang tŕ thủy thiển táp b́nh căn.
Nhật di lệ ảnh đầu lân bích,
Phong tống
tâm thanh khấu quốc môn.
Phóng tận
thiều thiều
thiên lư mục,
Dị bang lưu
hữu Hán gia hồn.
VIẾT LÊN XÚC CẢM NGƯỜI LỮ
KHÁCH
(Tháng 7 năm 1958 ở
Sài G̣n)
Mi giang trời
nhạt sắc thu,
Hiểu thêm vũ
trụ nửa thù nửa ơn.
Đường tơ liễu
cỏ xanh rờn,
Rễ bèo nước
kiệt chải
vờn đầm
hoang.
Nắng soi lên
vách nhà bên,
Tiếng ḷng rộn
gió gơ rền quốc gia.
Mắt nh́n tít
tắp ngh́n xa,
Nước người c̣n có kẻ
là Hán nhân.
Chi Nhất 之一 dịch
Diễn giải:
Với kẻ
trải nghiệm
sâu sắc cuộc sống, dễ nhận ra rằng cuộc sống vừa đáng nguyền rủa vừa đáng tạ ơn (câu 2). Đường đời
vẫn đẹp
đẽ, đáng
yêu (câu 3) nhưng thân phận trôi nổi của ḿnh lâm cảnh ngộ cánh bèo nước cạn, không lênh đênh tiếp trụ nữa, chỉ mặc cho bộ rễ chỗ ven đầm, chải theo sự xao động của nước (câu
4). Nắng
chỉ soi cho ai chứ
không ngó ngàng ǵ đến cảnh ngộ người lữ khách (câu 5) trong khi bản thân ḿnh từng là cán bộ chính trị có lư tưởng,
lúc nào cũng băn khoăn vận mệnh quốc gia (câu 6, tham khảo tiểu sử Tiếu Phật). Ḿnh là người lữ khách bơ vơ, lạc lơng, trơ trọi liên quốc gia (câu 7-8).
II.
“QUƯ SỬU TUẾ MỘ CHÍ
HOÀI”

黎元
一九七四年元月於芽莊
(Nhất cửu thất tứ niên nguyên nguyệt ư Nha Trang)
Bán sinh trần kiếp lư,
Vân hải
nhất chinh hồng.
Y kệ bất vi sỉ,
Thác biều
diệc cố cùng.
Dật t́nh du
vật ngoại,
Túy ư ngọa
thư trung.
Phủ ngưỡng
khoan thiên địa,
Hà tu tự khuất cung?
GHI LẠI NỔI NIỀM CUỐI NĂM QUÍ
SỬU
(Tháng giêng 1974 ở Nha Trang)
Nửa đời lăn lóc bụi trần,
Trời mây biển
thẳm một thân chim hồng.
Mẽ ngoài chẳng
ngại người
trông,
Gửi cầm bầu
rỗng, cố cùng hẳn hoi.
Buông xuôi một
khối t́nh hoài,
Đắm ḿnh sách
vở, chẳng
coi ḿnh ghiền.
Bao la trời đất mông mênh,
Sao ta lại
phải ép ḿnh nằm co?
Chi Nhất 之一 dịch
Diễn giải:
Lăn lóc nửa đời mà vẫn phải tiếp trụ (câu 1). Chí khí cao xa
rất muốn
bay hết tầm
nhưng không cùng ai chia
bớt sức gió cản trở, cứ phải lẽo đẽo bay măi (câu 2). Ăn mặc
xuềnh soàng nhưng chẳng ngượng (câu
3). Không
c̣n tiền mua rượu, lại túng bấn phải đem cầm chiếc bầu nhưng vẫn bền ḷng chịu túng chứ không kiếm chác bất chấp thủ đoạn (君子固穷, 小人穷斯濫矣). Tiếu Phật
là mẩu người quân tử cuối cùng của nền nho học truyền thống. Ông thấm thía châm ngôn 穷则变, 变则通 nên
quyết tâm phải vùng lên (mấy câu cuối).
Đọc những
ǵ Tiếu Phật kể về đời ḿnh, ta dễ nhận ra ông có
một nhân cách lớn, một hoài bảo lớn nhưng cuộc đời níu gh́, tạo cho ông biết
bao bế tắc, ông như con chim hồng bay đường
xa (chinh hồng) h́nh hài không nhốt giam nổi lư tưởng lớn lao ấy, đây là nổi khổ maratong của đời ông.
|