Ghi chú dẫn nhập của
KHAIMINH.ORG:
Tiếu Phật 笑佛
là bút hiệu của cố giáo sư Lê Nguyên 黎元老師.

THƠ TIẾU PHẬT
Tổng quát thơ Phật
Cười ta thấy tác giả làm thơ có vẻ
dễ dăi nhưng thực ra đấy là cái dễ dăi
qua nhiều công phu trau chuốt g̣ gẫm cật
lực bởi đấy là công phu nhuần nhuyễn
của một nhà sư phạm . Người
đơn giản suy nghĩ cứ tưởng là công
chuyện dễ ăn. Sự lựa chọn cách
diễn đạt tinh vi ấy người đọc
phải tỏ mắt mới nh́n ra. Thơ Phật
Cười có lẽ không nhiều nhưng bài nào
cũng công phu, lời lẽ thâm thúy và ông chỉ làm khi
có dịp nào cần ghi nhớ. Bài 乙巳春抒懷
Ất Tỵ Xuân Trữ
Hoài (Tỏ Ḷng Xuân Ất Tỵ) ông sáng
tác v́ lí do đó.

黎元
一九六五年於芽莊中學
Âm Hán Việt:
ẤT TỴ XUÂN TRỮ HOÀI
(Nhất cữu lục
ngũ niên ư Nha Trang Trung Học)
Nhất
trượng phong sương hựu độ xuân
Thiên
nhai do tác báng môn nhân
Hoán
lai mục túc
tần lao thiệt
Ủng
thượng thanh khâm chẩn tế thân
Phát
dĩ bạc thiêm tri tiệm lăo
Tữu
thường xa thủ chỉ duyên bần
Phồn
hoa quá nhăn khang tâm lăn
Tĩnh
đối thư trù phất ám trần
Dịch
thơ:
TỎ L̉NG XUÂN ẤT TỴ
(Xuân Ất Tỵ 1965 tại
Trung Học Khải Minh Nha Trang)
Gió sương chồng chất lại xuân
về,
Lận đận khắp trời kiếp
mướn thuê;
Đắp đổi rau hoang tê chót
lưỡi,
Lê la áo lụa đỡ mùi quê;
Tóc thêm sợi bạc do thừa tuổi,
Rượu thiếu tiền mua chỉ
tại nghèo;
Ngắm cảnh phồn hoa ḷng nguội
ngắt,
Lặng lau pḥng khách bụi mờ che.
Ngô Văn Lại 吳文賴 dịch
Việt
Nam,
Xuân Bính Thân
2016
Diễn giải:
Câu 1 -
一丈風霜又渡春
Nhất trượng phong sương
hựu độ xuân
Sau bao nhiêu năm sống
đời du mục, không biết Phật Cười
đă nếm trăi bao nhiêu sương gió, cuộc
đời Phật Cười lại nếm thêm
một mùa xuân Ất Tỵ để nhận việc
dạy trẻ Khải Minh.
Câu 2 -
天涯猶作傍門人
Thiên nhai do tác báng môn nhân
Tính ra bao nhiêu năm
trước (và cả năm nay nữa, Phật
Cười vẫn c̣n đeo đuổi cuộc
đời “phó thường dân” (bàn môn nhân) (môn nhân ké)
tức người nhà giữ chân sai vặt chứ
không sai làm việc chính, ngay cả việc dạy
học (Phật Cười cũng không phải là
hiệu trưởng) mặc dù ông là người
tốt nghiệp trường sư phạm chính qui.
Câu 3 -
換來苜蓿頻勞舌
Hoán lai mục túc tần lao thiệt
Kể lại nổi long
đong khổ nhục (mục túc là thứ rau hoang
mọc nhiều người ta dùng làm thức ăn cho
ngựa và dân nghèo dùng tạm đỡ đói).
Câu 4 -
擁上青襟僅蔽身
Ủng thượng thanh khâm chẩn tế
thân
Tuy gian khổ nhưng tác
giả vẫn dùng áo lụa xanh (phục trang học
tṛ chưa nên danh phận) nhưng mặc như
thế để chứng tỏ tư cách chưa
đến nổi lam lũ lao động chân tay.
Câu 5 -
髮已白添知漸老
Phát dĩ bạc thiêm tri tiệm lăo
Câu này ư nghĩa đơn
sơ nhưng hàm xúc ở chữ (tri) lẽ ra bản
thân Phật Cười đương nhiên biết
ḿnh sắp già nhưng những năm tháng trôi nổi
gió sương cơm áo gạo tiền, làm ông quên
mất. Nay nhờ xuân về, lại tóc điểm
bạc, ông mới nhận ra điều ấy.
Câu 6 -
酒常賒取祇緣貧
Tữu thường xa thủ chỉ duyên
bần
Nhà nho làm thơ phải có
rượu tạo hứng. Đỗ Phũ có câu:
(tữu trái tầm thường tùy xứ hữu)
tức thi nhân đến đâu rượu
đấy, nhưng Phật Cười phải mua
thiếu chỉ v́ nghèo. Lẽ ra Phật Cười
thú nhận là thế nhưng ở đây ông không
viết (chỉ do bần) mà lại viết (chỉ
duyên bần). Ông gọi cái nghèo của ông là cái duyên
gặp gở, coi đấy là t́nh bè bạn là duyên
trời chứ không phải là cái nợ oan nghiệt
trời buộc cho ông. Ở đây cần nhận ra
một điều Phật Cười vui vẻ nhận
cái nghèo như một mối (duyên lành) được
Tạo hóa ban riêng cho ḿnh chứ không đỗ thừa
là (tại). Ta thử h́nh dung Phật Cười
giầu sang, mỡ cửa xe choáng lộn bước
xuống đi giữa đoàn người đón
tiếp cạnh ḿnh là đám công tử tiểu thư
áo quần là lượt thước tha có lẽ
Phật Cười chẳng thể nào cười cho
được chỉ có nước khóc mà thôi.
Câu 7, 8 -
繁華過眼看心懶
靜對書櫥拂暗塵
Phồn hoa quá nhăn khang tâm lăn
Tĩnh đối thư trù phất ám
trần
Ngày Tết phố
phường tấp nập thiên hạ chộn
rộn, Phật Cười nh́n cảnh ấy không
nhập cuộc v́ túi rỗng tiền, nên không nh́n ra
phố xá nữa mà quay vào pḥng khách (là thứ
đối trong với cảnh phồn hoa ngoài phố)
để làm chuyện sạch sẻ trong ba ngày
tết. Cái việc ông làm thanh cao trong sạch biết
bao nhiêu.
|