Chuyện nầy xảy ra vào năm 1958, lần ở tù
thứ tư của đời tôi vẫn với tội danh “làm tay sai cho
VC.” Ba tháng trước
đó, tôi vừa thi đỗ bằng
Trung học Đệ
nhất cấp,
tức tương
đương tốt
nghiệp Trung học
phổ thông cơ sở của ngày nay, nhưng vào thời ấy thì như thế đã là “khoa bảng” lắm lắm. Kẻ đỗ rất có phong cách trí thức, chủ yếu là nhờ đông đảo kẻ hỏng làm “phông” cho nổi bật kẻ đỗ. Cả mười huyện
của tỉnh
Quảng Nam ngày ấy
cộng với cả mấy quận của thành phố Đà Nẵng nữa, bề thế như vậy mà chỉ đỗ 52 người trong số 551 người
dự thi, tính đổ đồng mỗi huyện chưa quá ba người
đỗ khiến
cho việc tôi vào tù
trong tư thế một kẻ sĩ sắp gặp thời bỗng lâm cơn hoạn nạn ngang xương, mọi công chức trong quận đều tỏ vẻ nể nang ra mặt. Thỉnh thoảng có năm ba vị tò mò thập
thò trên hành lang công đường, dõi mắt về phía trại giam rà tìm
bóng dáng tôi rồi thầm thì chỉ trỏ nhau như để ngắm nghía một con thú lạ mà Sở thú vừa nhập về để phục vụ khách tham quan. Ý nghĩ ấy càng có độ
chính xác cao khi họ
chỉ thấy tôi loáng thoáng qua mớ dây thép gai chằng chịt bên ngoài luống nầy luống nọ. Ở
cự ly chưa tới 20m, vẻ mặt họ tràn đầy trắc ẩn ngậm ngùi cho số phận một kẻ gặp cơn bất hạnh. Trong
số người
thậm thụt
ngắm lén ấy, có cụ Thi gây bất ngờ cho tôi nhất. Gặp lối chỗ hành lang cụ bắt tay thật chặt rồi nắm giữ lại một lúc lâu, hỏi han gia cảnh và tình cảnh
rồi móc ví biếu tôi cả một tờ hai trăm. Nhờ có tờ bạc ấy, gặp lúc đi tạp dịch bên ngoài với các bạn tù khác, tôi hào phóng đãi bạn những tô bún giò nóng
hổi, bấy giờ chỉ là món ăn
thành thị, dân quê như
họ ít khi dám động
đến mặc
dù mỗi tô chỉ tốn hai đồng. Hằng ngày,
công việc tạp dịch của tôi là lập biên bản hỏi cung cho Chi cục Công an (bấy giờ chưa gọi là Cảnh sát) hoặc biên bản hòa giải cho các cuộc
kiện tụng
cấp quận.
Các quan trên thường rất
hài lòng về những tờ biên bản nọ nhờ ghi chép lời khai các đương sự
rất đầy
đủ, đặc
biệt là nắn lại các lời lẽ của họ cho trơn tru mạch lạc, xóa đi những lời lẽ ngô nghê lủng củng. Nói chung, tôi là tên
tù khá được việc,
ngầm được
đặc cách làm công chức văn thư, luôn có mặt trong giờ làm việc của Chi Công an. Một
tù khác cũng có mặt thường
xuyên như tôi nhưng chỉ chuyên về tạp vụ, đồng thời còn là “ăng ten” cung cấp tình hình trại giam. Anh ta cứ nghĩ công lao nầy giúp mình sớm về với vợ con mà không hề biết rằng “địa vị” mình khó thể thay thế nên được giữ
lại dài dài.
Một
hôm nọ, thấy tủ hồ sơ quên khóa, cơ quan lại vắng teo, mấy nhân viên tranh thủ la cà đâu đó, tôi táy máy lục
soạn, lôi ra một cuốn sổ lớn bìa bọc vải đen. Ngay trang đầu đã kẻ to hai chữ đỏ rực: TUYỆT MẬT. Đúng
là tính tò mò đã
đạt kết
quả cao hơn mong đợi. Đúng lúc ấy, anh chàng “ăng ten” thấy chả còn ai để phục vụ bèn quy lại nhà giam, chỉ cách Chi công an quãng đường đi
quanh một góc tường lửng. Tôi hoàn toàn yên tâm, giở sổ nọ ra xem. Tôi cảm thấy bị choáng khi càng giở càng bắt gặp tên tuổi cùng hành vi, hành động của lắm người “tai to mặt
lớn” hẳn
hoi. Tận lúc ấy tôi mới hiểu là mình vô
tình động đến “sổ đen”. Từ lâu, tôi chỉ nghe cách gọi “cạc nê noa” cứ nghĩ đấy là thứ sổ tay bỏ túi, đâu dè nó to cỡ đến thế. Lật đến hơn nửa cuốn, say sưa tìm được
bao nhiêu là bí mật cá nhân của
nhiều người
trong quận, tôi quên cả cảnh giác và bị
trả giá tức thời. Cửa ra vào xộc mở, “ăng ten” lù lù xuất
hiện. Tôi giấu tình trạng quả tang bằng cách thư thả xếp lại chồng sổ cái trả vào tủ rồi lúi húi lục lọi chồng sổ bên cạnh. Bất chợt “ăng ten” độp cho tôi một câu đáng sợ nhất:
-
Anh “đọc” gì trong đó vậy?
-
Tao coi thử ngày nào mình được tha nhưng không thấy. Còn mầy, cuối tháng sau là về
rồi. Nhớ giấu kỹ tin nầy đó nghen! Mầy mà bép xép
là ở lại mút mùa đó!
Hắn hí hửng:
-
Biết rồi! Dại gì!
Hắn kiên nhẫn chờ cuối tháng sau rồi kiên nhẫn chờ thêm tháng sau nữa cũng chả thấy tăm hơi gì. Hết kiên nhẫn, hắn hỏi thẳng tin tức ấy. Viên thẩm vấn gắt:
-
Ai bảo mày thế!
-
Dạ … anh L.
-
Sao nó biết?
-
Dạ … ảnh đọc trong sổ.
-
Sổ nào?
-
Cuốn sổ có bìa bọc
vải đen đó!
-
Cái gì? Sổ
… bìa đen?!
Lão thẩm vấn giận cành hông như bị một cú đấm vào bụng. Kẻ đấm lại là võ sĩ
hạng nặng
môn quyền Anh! Lâu nay, nghề của lão là “đấm” người
ta, giờ bỗng
nhiên bị đứa nhà quê qua mặt, khinh nhờn. Hẳn là hai tháng nay thằng nhà quê ấy nhởn nhơ, coi lão như
trẻ con.
Chắc là lão căm tôi suốt cả đêm dài nên mới
hơn năm giờ lão đã cho người sang nhà giam gọi tôi đến ngay cơ quan, không đợi nổi đến giờ làm việc.
Tôi không còn đủ can đảm để
đón nhận những gì lão sẽ thi thố lên người tôi. Mấy tháng trời giúp lão làm biên bản lấy cung, tôi tích lũy quá nhiều kinh nghiệm về lão. Thứ kinh nghiệm chết tiệt ấy có lẽ không nên có mới dễ thở hơn.
Lão ngồi bỏ chân một bên ghế, lừ mắt ngắm “con mồi” lão chờ. Bảo rằng
lão chỉ muốn “ăn tươi nuốt sống” thằng tôi thì nghe
hơi quá nhưng quả tình tôi đang lường tới cái cảnh rùng rợn ấy. Lão cố chịu “ngặm tăm” cả lúc lâu mặc
xác cho tôi bồn chồn thấp thỏm. Đặc biệt lão cứ khịt khịt lỗ mũi là cái kiểu tôi quá quen
thuộc. Mỗi
lần lấy cung nghi can nào trả lời quanh co chối tội là mũi lão lập tức bị dị ứng khịt khịt mấy cái rồi a lê hấp! Lão gí điện tới tấp, không thèm biết mình đang gí vào một con người. Giờ
đây, lão lại khịt khịt mũi, gườm gườm
nhìn tôi bằng kiểu nhìn nhức nhối. Tội của tôi quả thật tày đình, ít thấy xảy ra trong quá khứ của ngành. Đối với giới an ninh, kẻ xem trộm sổ đen là kẻ giũ sạch công lao của hàng trăm kẻ chỉ điểm cung cấp thông tin, biến bao nhiêu triệu đồng thưởng
nóng thưởng
nguội bị coi như giấy vàng mã đốt cúng cô hồn
sống. Cơ quan an ninh bị đọc trộm sổ đen chẳng khác gì trong
giới võ lâm bị điểm vào tử huyệt, phế hết võ công. Lão đang lâm vào tình
trạng lúng túng. Lão vừa muốn “ăn tươi nuốt sống” lại vừa chưa quên những tờ biên bản mà tôi viết
trơn tru tròn trịa, làm nó trở
nên “tươi” hơn, “sống” hơn lên từ bấy lâu nay. Tôi mà “héo” là lão thiệt.
Đột nhiên lão quát chói tai:
-
Tự còng đi! Nhanh lên!
Tôi riu ríu cất bước nặng nề đến chiếc cột tre chống đỡ mái nhà lợp tôn của phòng thẩm vấn. Cách chân cột chừng một thước là một chiếc còng số 8 có dây kèm
buộc cố định vào cột. Nghi can nào bị còng vào đấy đều thừa biết là phải chuẩn bị tinh thần xơi món gí điện.
Nhờ chiếc
còng cố định ấy, người bị gí điện chỉ ngất xỉu ngoẹo đầu tại chỗ chứ không lăn đùng va đập bừa bãi gây chấn
thương rách
việc. Thời
thuôc Pháp, Sở Mật thám xài điện tra tấn có phần chuyên nghiệp hơn, máy điện ở đấy
gắn vào góc bàn, can phạm bị trói vào dây truyền, quay máy một vòng là run lên bần bật không chịu nổi, phải gấp rút khai cung. Đám bộ hạ nhà Ngô bấy giờ xài kiểu con nhà nghèo, nối thẳng vào điện thắp sáng, chỉ gí một nhát, chạm đến da là chết giấc, chỗ gí để lại chút nám đen.
Tôi tự còng mình xong, lão vớ ngay que gí vừa dứ dứ trước mặt tôi vừa hỏi:
-
Anh là đứa thật chả biết điều.
Thấy tôi thương hại rồi được
đằng chân lân đằng đầu! Sao anh dám xem trộm
“cạc nê noa” của chúng tôi?
Tôi cất giọng run run nhằm gợi lòng thương hại:
-
Thưa thầy, tôi đâu dám ạ! Hôm ấy thầy giao tôi chép sạch mấy tờ khai cung hôm trước. Thầy dặn phải xong tất cả trước khi thầy về nhưng đang chép nửa chừng thì hết giấy. Nhớ lời thầy dặn làm gấp nên tôi đành
phải tìm kiếm giấy trong tủ. Lâu nay vẫn chép cung trên giấy ca rô, chép tạm giấy pơ luya sợ thầy không bằng lòng. Thấy cuốn sổ cũ, tôi đem ra giở coi có mót được
tờ nào không, đâu biết rằng cuốn sổ to như thế lại gọi là cạc nê…
Lão ta lại dứ dứ que gí điện:
-
Anh trí trá khéo
đấy! Tôi không tin đâu. Ở
đây chắc không hợp với anh nên anh tìm
cách để được “tống”
đến một
nơi chỉ có cây cỏ
trời nước,
hàng ngày trò chuyện với cua với cá thôi chứ gì! Anh ngu lắm!
Đang nói thao thao chợt lão đứng phắt dậy, kéo chiếc bàn gỗ lại gần tôi. “Xoẹt” một tiếng, lão giật toang vạt áo sơ mi của tôi, cúc áo văng tung tóe tứ phía, bày ra chiếc bụng suy dinh dưỡng lâu ngày. Lão đưa que gí điện từ từ vào làn da bụng tội nghiệp ấy. Gí đến đâu, bụng tôi thót lui đến đấy. Khi nhận
ra bụng tôi không thót thêm được nữa,
lão dừng lại, đặt
que gí lên mép bàn, mỉm cười nham hiểm, ung dung quay đi làm công việc hàng ngày, chả thèm đếm xỉa kẻ đã làm lão căm tức.
Rõ ràng là lão không
nỡ trị tôi, kẻ đã đỡ chân đỡ tay cho lão
bấy lâu, nhất là lão biết ơn tôi sâu sắc về những lần “tư vấn” cho lão về chính tả. Thời ấy, công chức cấp quận chưa có văn bằng gì, chỉ cần có những tờ trình không phạm lỗi chính tả là được đánh giá cao về trình độ văn hóa. Thế nhưng lão ta lại không thể không duy trì kỷ cương phép nước, lão đã vắt óc nghĩ ra cách trừng
trị kỳ quặc nhưng khá ổn thỏa nọ. Phải công nhận lão ta quả là tay quá thâm
độc.
Đứng nhón chân cho đúng tầm chỗ buộc còng, mười ngón chân tôi như liệt hẳn. Kẻ cố định chiếc
còng ở độ
cao ấy đáng coi là có trình
độ cao và chuyên nghiệp. Chắc cũng lại là lão ta thôi. Giữ cái bụng thót suốt cả giờ, việc ấy đáng gọi là kỳ công. Chả thế mà mấy tay háo danh ngớ ngẩn khắp năm châu bốn biển có “thằng chả con mẻ” nào dám đi kiếm kỷ lục Guiness về cái trò ngớ
ngẩn ấy đâu? Ấy là điều tôi mới nghĩ bây giờ, chứ đang lúc ấy thì khổ ơi là khổ! Mớ sườn
non ê ẩm do phải
lên gân trân bụng kéo dài, nhưng thật ra nói thế
chưa đủ
nghĩa, phải
bảo là quá ư ê ẩm vô cùng! Việt ngữ lại chưa có từ nào dùng vừa vặn cho trạng thái ấy, đành tạm gọi là... ê ẩm không bút nào tả xiết! Phải chi lão ta nện một chầu tới tấp hay gí một trận ra trò, lê về
trại giam tôi chỉ cần bóp chút muối là xong. Đúng là thương nhau như thế bằng mười phụ nhau. Tôi chợt nghĩ ra một chiêu hữu hiệu: tôi phình một tí bụng bên nầy, rồi một tí bên kia, cố giữ cho hai đầu chiếc “càng cua” đừng cùng lúc chọc
vào bụng. Té ra chiếc
bụng vớ vẩn của mình cũng có trình độ ra phết! Sau mấy phút phình phình thót thót, tôi đẩy chiếc
“càng cua” gí điện lùi lại một tầm an toàn, chả bị chập mạch lần nào. Kẻng cơm bên trại giam vang lên, lão gườm gườm
mở khóa còng cho tôi, người tôi run rẩy choáng váng như vừa ốm dậy.
Buổi chiều, lão hất hàm một phát, tôi đau khổ hiểu ngay là …bổn cũ soạn lại. Chỉ tội nghiệp cho mười đầu ngón chân, chứ phần cái bụng tôi thoải mái tự tin, muốn thót muốn phình tùy ý vì tôi chợt
nhận ra điều rất đáng đồng tiền bát gạo: đeo cặp kính cận như hai đáy chai thế kia, có cho quà lão
cũng khó nhìn nổi bụng tôi đang phình hay thót ở tận cuối phòng thẩm vấn! Tôi cũng hơi nghi là lão ta biết tôi giở trò ma giáo nhưng cố ý làm ngơ. Dù gì thì cũng
nhẵn mặt nhau ngót mấy tháng nay rồi. Lại tính lão kỹ cơ, ngồi viết tờ trình lần nào cũng ngước lên hỏi tôi
năm ba chữ chính tả. Giờ đây nương tay cho tôi,
lão đỡ khổ tâm về thái độ lật mặt đột ngột nghĩ cũng khó coi.
Cái trò táy máy sổ
đen như thế, nếu lão nện cho tôi một
trận bò lê bò càng
phải nhờ bạn tù cõng về trại giam, húp cháo cả tuần tôi cũng chẳng có cớ gì để oán trách, thế nhưng lão nghĩ ra cách xử tôi như vậy thật đáng coi là quân tử.
Tôi bảo rằng lão quân tử không phải chỉ mỗi chuyện làm ngơ ấy mà còn cọng
với một chuyện khác, có phần ly kỳ hơn.
Nguyên bấy giờ cả nước có tục lệ hằng năm triển lãm thành tích hoạt động các cơ quan vào dịp quốc khánh. Trạm y tế của quận với cơ quan Chi Công an đóng khá gần nhau có lẽ
do liên quan nghề nghiệp: cứ mỗi khi Chi Công an giần cho te tua là
các nghi can chúng tôi dìu nhau sang trạm y tế bôi thuốc đỏ, thuốc tím, thuốc vàng, thuốc…vện! Thấy phía Công an đông người có hoa tay, vẽ vời cắt dán linh tinh, viên trưởng trạm y tế năn nỉ với công an xin mượn tôi mấy bữa.
Việc trạm giao cho tôi là vẽ
một bản đồ Quận với nhiều chi tiết hình thế, phân giới đầy đủ các xã. Trong số đó, xã nào có trạm
y tế được
đánh dấu bằng một chữ Thập đỏ tí tẹo. Việc ấy được
quy định trong quỹ thời gian ba ngày. Để đảm
bảo tiến độ, mỗi khi tôi vẽ
đến đâu
là một cô y tá đính
lên chữ Thập bằng vải đó đến đấy
ngay tức thì.
Phải thừa nhận rằng cô y tá nọ
hội đủ
số điều
kiện người
ta đòi hỏi
ở một nhan
sắc đúng nghĩa. Các ngôn từ dành cho việc ca ngợi vẻ đẹp nữ phái đều phù hợp với cô nàng. Tạo hóa trớ trêu đẩy một hồng nhan có đẳng
cấp như vậy đến một địa phận hành chính nhỏ nhoi Thượng đế có lẽ đánh mất từ điển nên quên ý nghĩa của mấy chữ “quốc sắc thiên hương”, lại
gán cho nàng nghề y tá, cái nghề
mà từ thầy thuốc đến người
bệnh ai sai cũng được,
ai mắng cũng
nghe, cảnh ngộ nàng đáng coi là hồng nhan bạc phận. Phần tôi, tôi rất cảm ơn sự đánh mất từ điển như thế của Thượng
đế.
Cô ta tên là Tuyết Nh. Cái tên gợi ý nghĩa dịu dàng êm ái
đúng như phong thái của nàng. Đúng là cái tên tiền
định. Nàng
ngồi đối
diện tôi. Giữa chúng tôi là chiếc
bàn gỗ nhỏ, mặt bàn chỉ nhỉnh hơn chiếc bản đồ vài xăngtimet mỗi bên. Nàng ngồi đối diện tôi, cắm đầu lúi húi, thận trọng, tỉ mẩn từng nhát kéo, xoay đi xoay lại mảnh vải điều để có những chữ thập đỏ tí
tẹo. Bên nầy bàn, tôi kẻ kẻ, tô tô rồi nắn nót viết nên cái tên làng
xã bằng kiểu chữ đẹp nhất, đáng cho nàng trầm trồ nhất. Tôi không dám chắc là nàng và
tôi hoàn toàn vô tình
mỗi khi bất ngờ áp má vào
nhau theo thế ngược chiều vào lúc nàng nhoài người qua mặt bàn để khâu chữ thập đỏ ở những
vị trí hơi phức tạp.
Một hôm nọ, chúng tôi cùng tỏ tình bằng chân trần dưới gầm bàn, không dè bị lão thẩm vấn viên nọ nhìn thấy mồn một khi lão đi
ngang cổng, cách chiếc bàn làm việc
nọ chỉ
non mươi bước.
Lão đứng khuất trụ cổng căng mắt quan sát trọn vẹn nhưng không sao nhận ra thủ phạm, đồng phạm vì hành vi quá đỗi giống nhau, hai bàn chân
nầy ấp ủ,
vuốt ve âu yếm một bàn chân kia, rất khó nhận cho rõ lẽ.
Rốt cuộc,
xốn mắt hết chịu nổi, lão xăm xăm xộc vào, mặt đằng đằng sát khí, lừ lừ đôi mắt sau đáy chai, hầm hầm chiếu tướng Tuyết Nh. nhưng
ngón trỏ tay lão thì
lại điểm
điểm vào bản mặt tôi:
-
Cô có biết
thằng nầy
là cái gì không?
Tuyết Nh. thất đảm, lấm lét nhìn tôi rồi nhìn lão lắc đầu nhè nhẹ. Lão gầm từng tiếng:
-
Nó là thằng
V.C. cỡ bự
đấy nhá! Cả quận nầy có đến hàng chục người
tố cáo nó rồi đấy nhá! Cô hãy coi
chừng đấy
nhá!
Lão lại hầm hầm bỏ đi ra, cường độ nện gót còn hơn
hồi xộc vào.
Lão cuốn xéo tưởng chừng như đã nửa thế kỷ, Tuyết
Nh. mới lấy
lại hồn vía, nhẹ giọng hỏi:
-
Ổng nói thiệt không anh?
Tôi cười khẩy:
-
Ổng nói cái gì mà
không thiệt? Ổng bảo mặt trời mọc phương nam lặn ở phương bắc đi nữa, tôi cũng sẵn sàng không cãi kia mà?
Nàng duyên dáng cười tủm tỉm, nguýt tôi một phát long lanh nước hồ thu, đã
54 năm nay mỗi
lần nhớ lại, tôi đều tốn nhiều suy đoán nhưng chưa lúc nào tôi dám
tự tin là mình hiểu đúng cú nguýt ác liệt nọ.
Thật ra lão thẩm vấn viên ấy mê tít cô y tá xuân xanh
hơ hớ nọ nhưng cấn vợ con đùm đề nên khó thể
ngỏ lời nhưng thói quen thâm căn cố đế của lão là ai làm việc cho Quận tức là của…Quận, nghĩa là có phần của lão, như thế tội của tôi đã rành rành, nếu lão gom vào tội
táy máy sổ đen để xử tôi luôn một lần thật đích đáng cho nguôi căm tức. Lão ta không hề làm như thế nên tôi đâu có cớ nào để cho rằng lão không… quân tử?
Giáo Sư Ngô Văn Lại 吳文賴老師
Việt Nam, Tháng
03, 2012
|