1956, tôi cải táng mộ bố. Ông thầy địa lư
người Tam Kỳ do chồng cô Ba tôi rước hộ
đang cùng hai dượng cháu tôi lang thang quanh vùng t́m cuộc
đất có chất lượng. Vừa đi, ông ta
vừa hỏi tôi:
-
Em muốn
có cuộc đất phát giàu hay phát sang?
-
Thưa
cụ, cháu không muốn cả hai. Cháu thấy trên đời
này chẳng mấy ai thiệt ḷng yêu mến thân thiết
với người giàu lẫn người sang. Họ
giao du với nhau đầy mặc cảm tự tôn với
tự ti, lăm lăm lợi dụng nhau chứ ít có
t́nh nghĩa. Cháu chỉ mong khỏe mạnh, không quá
túng bấn, đừng khổ v́ nợ nần là tốt.
Tôi khẽ khàng đáp những lời ấy bằng
tất cả ḷng thành thật. Ông thầy địa
lư cười đôn hậu:
-
Em trả
lời có lư lẽ lắm. Bao nhiêu năm mần nghề
ni, “qua” chưa gặp ai trả lời sâu sắc
như em hết.
Thật ra khi ông ta chợt hỏi, trí tôi liền
lởn vởn h́nh ảnh ông “thầy bói sáng” người
Hoa Kiều xủ quẻ cho tôi ở Huế hồi c̣n
bé. Ông ấy khẳng định rằng trong
tương lai tôi chẳng mong ǵ được hưởng
mùi vinh hoa phú quư, có cố gắng cải số chỉ
làm thêm cho ḿnh yểu mệnh mà thôi. Lời đoán ấy
của ông ta làm cho bố tôi rất buồn, bởi bấy
giờ tôi đang nức tiếng thần đồng ở
khu phố Gia Hội. Kể từ đó tôi chỉ học
hành đại khái theo sự sắp xếp của bố.
Một nhà hảo tâm nọ ở Huế (dạy môn chữ
Hán ở Quốc học) vào tận Quảng Nam điều
đ́nh mẹ tôi giúp ông thuyết phục bố tôi
đồng ư giao tôi cho ông nuôi đến lúc đỗ
tiến sĩ (chính ông ta là người đă phát hiện
dấu hiệu thần đồng ở tôi). Mẹ
tôi cứ khăng khăng tôn trọng quyết định
của chồng. Thế là ông … vỡ kế hoạch
đào tạo tôi. Bấy giờ tôi mới lên năm,
chưa hiểu tiến sĩ có nghĩa ǵ nhưng hai cậu
con trai của ông cũng đă lừa tôi ra chỗ vắng
giần cho một trận đáng đời gần nhừ
tử. Thế là chỉ mới nghe nhắc đến
hai chữ “tiến sĩ” mà tôi đă phải nếm
đ̣n thù và bỏ học, v́ hằng ngày tôi học kèm
cùng các con ông hảo tâm nọ (Vụ ăn đ̣n là do
tôi tham lam tận thu số phần thưởng bánh kẹo
hàng ngày. Rất tiếc là kể từ trận chiến
thụ động ấy, tôi chẳng có dịp nào
được gặp lại anh em nhà họ mặc dầu
hơn hai mươi năm sau, tôi sống ĺ ở Huế
có đến năm năm trời. Anh chàng cho tôi nếm
món “mũi ăn trầu, đầu để tang” ấy
không ngờ qua đời ở tuổi bốn
mươi bằng một cái chết khá đặc biệt
theo kiểu “chuyện lạ bốn phương”: Ở
tuổi ấy, anh ta đă là Thiếu tướng Không
quân Sài G̣n. Một lần nọ, Không đoàn của anh
bị rơi một chiếc trực thăng. Anh xót của,
đích thân đi cẩu về. Đang bay trên mặt
biển, đột nhiên tụt cáp, món hàng lặn biển,
dây cáp quất ngược lên người anh).
Lớn lên, tôi rất e ngại mỗi khi cảm
thấy cơ hội giàu sang mon men xuất hiện gần
tầm tay. Tôi cũng có ít nhiều háo hức nhưng
chúng khá chóng tàn chẳng khác ǵ các cuộc đốt rạ
chạy đồng của nông dân, chẳng mấy khi
kéo dài qua ngày khác. Sự đầu hàng chóng vánh trước
số mệnh của tôi c̣n có một nguyên nhân khác, ấy
là tôi “lậm” một lời cảnh báo tai ác của
sách Minh Tâm Bảo Giám lọt vào tâm hồn tôi năm 11
tuổi: “Mệnh lư hữu thời chung tu hữu - Mệnh lư vô thời mạc
cưỡng cầu - Thiên Thuận Mệnh” (Trong Mệnh
có thời th́ rốt cuộc cũng phải có - Trong Mệnh
không có Thời th́ đừng gượng t́m -Thiên “Chiều
theo Mệnh”).
Nếu chịu khó để ư một số
trường hợp từng xảy ra quanh ta, sẽ thấy
có lắm người nóng ḷng chụp giật thời
cơ bằng bất cứ giá nào lại thường
phải trả giá đắt khiến ta không thể
nào không thừa nhận sự nghiệm đúng của
mấy câu ca dân gian:
Số giàu đem đến dửng
dưng,
Lọ là con mắt tráo
trưng mới giàu.
Hoặc câu:
Cây khô tưới
nước cũng khô,
Phận nghèo
đi tới chỗ mô cũng nghèo.
Lịch sử Trung Quốc (Hán sử) đă có một
minh chứng khá kỳ quặc về t́nh h́nh nầy:
Vào đời Hán Văn đế (179-157Tr CN) một
đêm nọ, nhà vua chiêm bao thấy ḿnh bay lên trời một
cách ỳ ạch, bỗng có một “chàng đầu
vàng” (Hoàng đầu lang) nọ chạy đến
đẩy hộ, vua cất ḿnh nhẹ tênh rồi tỉnh
mộng. Đ́nh thần hùa nhau tán dương đấy
là điềm tốt ứng nghiệm cho nhà Hán ổn
định vẻ vang lâu dài. Vua rất đẹp ư,
quyết đi t́m chàng Đầu vàng nọ để
thưởng cho một mẻ đích đáng. Hoàng
đầu lang là lính đội mũ màu vàng, đảm
nhiệm việc chèo chiến thuyền nên vua cũng
đỡ tốn công t́m địa chỉ. Đến
Tiêm đài th́ vua nhận diện được anh Hoàng
đầu lang mặt mũi y chang kẻ trong mơ.
Tên anh ta là Đặng Thông. Vua hỏi câu nào anh cũng
lúng túng, chẳng “thông” chút nào, cuối cùng vua đành giở
đến giải pháp t́nh thế: ban thưởng
quách cho Đặng Thông một mỏ đồng,
đúc tiền mà xài. Chuyện rắc rối xảy
ra: dân chúng đổ xô dùng tiền Đặng v́ có trọng
lượng hấp dẫn hơn, c̣n tiền chính thức
của nhà nước bị rẻ rúng v́ dùng vào mua bán
đều gặp khó khăn trầy trật. Vua ức
lắm. Năm 156 tr CN, Cảnh đế nối ngôi
ban sắc chỉ thu hồi mỏ đồng nọ,
Đặng Thông bất ngờ trắng tay, trở nên
bần cùng cơ nhỡ, may sao gặp lại người
bạn cũ thời hàn vi thương t́nh, đưa
về sống chung những năm cuối đời
(chuyện nầy chép trong Từ nguyên cuốn từ
điển quy tụ hơn hai trăm soạn giả
Trung Quốc).
Bản thân tôi cũng từng nếm mùi chua chát một
t́nh trạng “tay trắng hoàn trắng tay” theo cách nói của
Dương Lâm (1851-1920) là “không thủ hoàn không thủ”.
Đấy là chuyện xảy ra năm 1962.
Vào năm ấy, đáp lời kêu gọi khẩn
thiết của Viện Khảo cổ Sài G̣n, tôi ra sức
mày ṃ đọc hết 128 bài thơ theo hai bài gốc
“Vũ trung sơn thủy” và “Phước viên văn hội
xuân dạ mạn ngâm” vốn được khảm
xà cừ trên gỗ quư trang trí ở điện Long An trong Hoàng thành từ thời Triệu
Trị (1840 - 1847). Tôi gọi là khẩn thiết v́ Viện
ấy than thở rằng giới cựu học tuy tồn
tại không ít nhưng “chồn chân mỏi gối” quá rồi,
Viện đă sao gởi cho từng cụ nhưng bốn
năm rồi vẫn chưa thấy cụ nào gởi
bài giải, giờ đây đành chỉ c̣n nhờ vào
lực lượng nhà nho trẻ.
Bài gởi chưa được một tuần
th́ tôi nhận được thư khen ngợi khá nồng
nhiệt kư tên Quyền Viện trưởng họ
Nghiêm. Mấy ngày sau tôi nhận thêm một thư khác
thông báo rằng Hội đồng Viện đă quyết
định dành cho tôi tôi món thù lao vượt khung. Tính
theo thời giá th́ sự phá lệ ấy tương
đương ba lạng vàng. Thế nhưng chờ
măi vẫn không thấy tiền và công tŕnh của tôi cũng
không xuất hiện trên kỷ yếu của Viện
như đă thông báo. Tôi chỉ c̣n cách giữ hai bức
thư nọ làm món quà kỷ niệm chua hơn giấm,
và cũng chưa hề đ̣i Viện nọ giải
thích nguyên do thất hứa. Ba lạng vàng cũng
đáng coi là tạm xóa bớt nghèo chứ chưa phải
là giàu, thế nhưng tay tôi vẫn chưa với tới.
Quả t́nh cái số đă nghèo rơ ràng đến thế
th́ đừng ḥng được sang v́ sang chỉ
đi đôi với giàu, thành thử tôi bắt đầu
sợ “sang” bằng sự sợ học hàm học vị,
cụ thể là sợ mảnh bằng tiến sĩ,
chuyện khó tin ấy đă xảy ra hai lần trong
đời tôi.
Lần thứ
nhất là một suất du học Mỹ.
Một ngày nọ vào đầu năm 1963, giáo
sư Trần Đ́nh H. Tổng thư kư Viện Đại
học Huế gọi tôi lên pḥng việc, bảo:
-
Tôi có
việc nhờ anh đây. Năm nay môn Lịch sử
giáo dục lớp anh có phần Lịch sử giáo dục
Trung Quốc nhưng tôi không t́m được tài liệu
để soạn bài. Tôi đă hỏi Ṭa Đại sứ
Trung Quốc nhưng họ đáp là không có. Nghe nói anh
am hiểu văn hóa Trung Quốc rộng lắm, anh có
thể thuyết tŕnh giúp tôi một vài giờ
được không?
Tôi ngần ngại:
-
Thưa
thầy, có lẽ thầy nghe nhầm lời đồn
thổi chứ kiến thức của con đâu có
đáng ǵ! E không đủ cho công việc ấy đâu
ạ! Nếu thầy cần, con sẽ nhờ thêm vài
anh em khác góp sức xem sao ạ!
Ông hớn hở:
-
Được
lắm! Cứ rứa đi! Tôi tin ở anh. Tuần
sau đấy nhé!
-
Dạ!
Không hiểu sao, khi vừa nghe ông ướm lời,
trí nhớ tôi như được bấm nút, lóe ngay
lên một câu của Kinh Thư, không rơ nó lọt vào trí
nhớ tôi dịp nào. Đấy là câu “Băo thực noăn y, dật cư nhi vô
giáo tất cận ư cầm thú, năi sử Khiết
vi Tư đồ, giáo dĩ nhân luân: phụ tử hữu
thân, quân thần hữu nghĩa, trưởng ấu hữu
tự, bằng hữu hữu tín…” (Ăn no mặc ấm,
ở rỗi mà không dạy tất gần với chim
muông, (vua) bèn sai ông Khiết làm chức Tư đồ
dạy đạo làm người: cha con phải có t́nh
thân, vua tôi phải có đạo nghĩa, lớn nhỏ
phải có trật tự, bạn bè phải có tin cậy…).
H́nh như câu ấy thuộc thiên Thuấn điển
th́ phải, đến nay tôi vẫn chưa dám chắc
ḿnh nhớ có đúng và đủ hay không, tuy nhiên chỉ
cần một câu nhỏ ấy thôi cũng đủ
đáp ứng ḷng kỳ vọng của thầy H.
đặt vào tôi. Ấy là Trung Quốc nghĩ đến
việc giáo dục từ đời vua Thuấn tức
thế kỷ 23 trước Công nguyên và viên Bộ
trưởng giáo dục đầu tiên của họ
có tên chính xác là Khiết (thời bấy giờ người
đời chưa đặt ra tộc họ).
Về nhà, tôi t́m đến La Cảnh Hùng. La là bạn
tri kỷ Hoa Kiều đầu tiên của tôi, cũng
đỗ khóa I trong cuộc thi tuyển vào Viện Hán
học Huế năm 1959. Anh ta hớn hở cùng tôi
phóng xe đạp đến ṭa Lănh sự Đài Loan ở
Huế. Té ra ở đấy chỉ toàn những công
chức ngoại giao thuần túy c̣n với văn hóa
giáo dục họ … không chịu trách nhiệm! Chúng tôi
đành ra về tay không, ngoài mấy số tạp chí
thời sự họ biếu. Chúng tôi cùng đi tiếp
đến nhà trọ của Dương Trọng
Khương, anh nầy vui vẻ cho tôi mượn cuốn
sách của học giả Nguyễn Hiến Lê viết
về Khổng Tử. Thế là kể như tạm
đủ sức qua cầu chứ chẳng đến
nỗi … tay không bắt giặc!
Môn Lịch sử giáo dục dạy chung cho từng
khối lớp khoa Sư phạm thành thử toàn thể
sinh viên năm thứ hai ở các ban Anh, Pháp, Toán, Sử
Địa Lư Hóa, Việt Hán (Huế bấy giờ
không mở ban Triết và ban Vạn vật) tề tập
ở giảng đường chính nên quang cảnh thật
náo nhiệt, các lời í ới réo gọi nhau đều
phải tăng âm lượng tối đa.
Tôi khoan thai vào giảng đường như kẻ
nhàn du. Vài bạn ở ban khác thấy tôi ĺ lợm
đi miết lên dăy đầu, nghi oan là tôi manh tâm léng
phéng nên rướn người phát vào mông tôi ngầm cảnh
cáo. Khi thấy tôi bước thẳng lên bục, đứng
quay mặt nh́n xuống, không ít người lộ vẻ
kinh ngạc v́ cảnh nầy trước nay chưa hề
xảy ra. Vài bạn rắn mắt c̣n cố giở
tṛ nghịch ngợm lắc đầu thè lưỡi
bỉu môi chế nhạo tôi cho bằng được.
Tôi mỉm cười vào cuộc. Tiếp sau
đó, mọi việc xảy ra tạm gọi là thông
đồng bén giọt. Điều tạo ấn
tượng cho tôi đến tận bây giờ là trong
phần giải đáp thắc mắc, tôi đă xử
lư thật ngon lành một vấn nạn khá ác ư mang
đầy tính khiêu khích nhằm tấn công sự
điềm đạm tự tin đáng ngứa mắt
ở tôi. Không ngờ khi tôi “phản pháo” bằng lời
lẽ hơi châm biếm liền nhận được
sự tán thành sôi nổi, tiếng vỗ tay râm ran,
hăng hái hơn cả là mấy bạn đồng
hương Quảng Nam của tôi giở ngón “lấy
độc trị độc” đứng hẳn lên reo
ḥ, vỗ vào cặp bồm bộp để “chọc
quê” kẻ khiêu khích (tôi mong kẻ ấy quên bẵng
chuyện nầy từ lâu, nếu anh ta vẫn c̣n nhớ
th́ tôi đúng là kẻ độc ác bẩm sinh!). Nhiệt
t́nh của các bạn đồng hương hôm ấy
quả làm cho tôi cảm thấy nở cả ruột
gan.
Hôm sau tôi lên Viện báo cáo hoàn thành nhiệm vụ.
Vừa bắt tay, thầy H vừa bảo:
-
Cảm
ơn anh. Tôi biết kết quả tốt rồi. Anh
cho tôi xin bài thuyết tŕnh đi!
Tôi hơi bất ngờ v́ khi nhờ cậy tôi,
không thấy ông ta giao hẹn điều ấy. Tôi lúng
túng:
-
Thưa
thầy, con chỉ có mấy câu “gạch đầu
ḍng” thôi ạ!
Ông gần như giật ḿnh nh́n sững vào mắt
tôi một giây êm ái:
-
Rứa
hả? Thôi th́ chừ anh viết cho tôi một bài đầy
đủ chi tiết vậy. Viết xong đưa
tôi.
Mấy hôm sau tôi trao ông bài viết hoàn chỉnh. Lật
xem lướt mấy trang, ông bảo:
-
Để
về nhà tôi xem. Anh ngồi đi. Tôi có việc cần
bàn với anh đây!
Tôi vừa yên vị trên ghế xa lông, ông lập
tức vào chuyện bằng một câu hỏi khó:
-
Anh giỏi
nhất ở Sư phạm phải không?
Dạng câu hỏi này hành hạ tôi rất nhiều
lần, nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy
ḿnh đáp nghe tạm xuôi tai, đặc biệt là những
lần bắt tay ông Khoa trưởng Văn khoa. Tuy
nhiên tôi cảm nhận đấy là loại câu hỏi
có độ thân mật và ưu ái khá cao. Tôi đáp:
-
Thưa
thầy, thầy hỏi khó trả lời quá! Con mới
học năm thứ hai thôi mà!
-
Thôi
được. Tôi có ư dành cho anh một suất học
bổng đi Mỹ, lấy xong tiến sĩ hăy về.
Anh thấy sao?
Vừa nói ông vừa nh́n thẳng vào mắt tôi,
chờ câu trả lời ưng thuận.
Tôi gây cho ông sự chưng hửng:
-
Thưa
thầy, con theo hướng văn hóa, có lẽ đi Mỹ
không hợp lắm. Chốn ấy chỉ hợp cho
khoa học kỹ thuật, c̣n văn hóa, h́nh như họ
chưa rơ nét lắm.
Vẻ mặt ông sa sầm, khó chịu thấy
rơ. Ông tốt nghiệp ở Mỹ hẳn hoi, ai nấy
đều biết. Vậy mà tôi ngây ngô xúc phạm ông
khá thô bạo, người mát tính đến mấy cũng
khó tha thứ. Đă thế tôi lại c̣n “đánh bồi”
một phát:
-
Thưa
thầy, con cũng không thích bằng cấp đâu ạ!
Ông có vẻ như mất ḷng tin vào tai ḿnh:
-
Sao? Anh
không thích bằng cấp, sao lại đi học?
Tôi kịp nhận ra ḿnh lỡ lời quá trớn,
nhất thời chưa có thuốc giải, nhưng cố
vớt vát:
-
Thưa
thầy, con nghĩ là viết được một
cái ǵ có ích c̣n hay hơn kiếm được mảnh
bằng có giá trị nhưng kém hữu ích. Con đi học
để làm việc trước chứ không v́ việc
sau…
Lời ông vẫn c̣n giữ nổi vẻ ôn tồn,
h́nh như đấy chính là phong cách Huế:
-
Anh có
chắc là ḿnh suy nghĩ chín chắn chưa? Hăy về
nghĩ kỹ lại đă nhé! Tôi có việc đi gặp
ông Viện trưởng đây.
Tôi cảm thấy được giải phóng v́
thầy tṛ chúng tôi chả c̣n ǵ trao đổi nữa.
Có lẽ từ ngày giữ chức Phó chủ tịch Hội
đồng Du học, ông chưa hề gặp kẻ cứng
đầu quá đáng như tôi, dám coi nhẹ một ân
huệ trên cả tuyệt vời như thế. Du học
bao giờ cũng là miếng mồi hấp dẫn mọi
sinh viên ham học lẫn chán học. Thân nhân họ có
khi c̣n phải cầu cạnh chạy chọt cửa
này cổng nọ phờ người mà chưa ḥng kiếm
nổi một suất “lách chiến tranh” hợp pháp
như thế kia mà! Ông suy nghĩ quá ư đơn giản
theo đường thẳng Toán học, cứ thấy
kẻ học khá là tạo điều kiện cho nó
vươn xa mới hợp đạo lư, thế
nhưng mọi lối đường đời làm
ǵ có đường thẳng?
Theo kinh nghiệm của
tôi th́ ở mỗi con người, phần “ác” bao giờ
cũng lấn lướt phần “thiện”. Cứ thử
giao cho một kẻ chỉ điểm nào đó theo
dơi một phần tử khả nghi th́ chẳng làm ǵ
có báo cáo nào mang nội dung: “B́nh thường, cần cù
nghề nghiệp, không có biểu hiện ǵ cụ thể”.
Nhất định loại báo cáo lấy không nói có,
thêm thắt bịa đặt sẽ tới tấp ê hề
v́ bản chất việc theo dơi toàn là để vạch
mặt kẻ khả nghi, không bịa được
điều khả nghi mới mẻ nào là việc theo
dơi coi như thất bại, kẻ theo dơi bị khiển
trách th́ có chứ khó mong ǵ được khen thưởng.
Chẳng một kẻ chỉ điểm nào cam tâm chịu
dại để rước vạ vào thân! (Cũng chẳng
có kẻ nào thắc mắc là lính biệt kích sao lại
phải thuê nhà?). Theo nhận thức của tôi, cách làm
này là cơ sở cho thuyết “Nôn mửa” (La Nausée) của
Jean Paul Sartre để đưa đến kết luận
“Tha nhân là địa ngục” (L’enfer, c’est
les autres).
Việc tôi giả mạo
hồ sơ làm cựu học sinh Thiên Hựu không phải
do tôi ham “ăn theo” danh giá của nhạc sĩ Trịnh
Công Sơn v́ bấy giờ chúng tôi không hề biết
“Ai là ai?”. Ư đồ đơn giản của tôi là
xóa đi một phần đời mà hai phe đối
địch bấy giờ cố t́nh lợi dụng
quyền lập hồ sơ bịa đặt đầy
ác ư nhằm mục đích tâng công, cố đẩy
tôi vào cửa tử để phá hoại cho bằng
được con đường tiến thân trong sáng
của một kẻ lương thiện chăm lo học
hành như tôi.
Ai cũng biết
Linh mục Trần Hữu T. thời ấy là “Cha bề
trên” của trường nọ. Ông là hiện thân của
sự mẫu mực, nguyên tắc và rất nghiêm khắc.
Tôi được mời dạy ở đấy hai
năm, lúc nào cũng nơm nớp sợ ḿnh gây điều
thất thố v́ các giáo sư ở đấy hầu
hết là những nhân vật nổi tiếng trong thành
phố và của giáo hội. Trong quá khứ, vài người
trong số họ từng góp phần đào tạo nên
mấy tổng trưởng, thứ trưởng chất
lượng cao.
Bấy giờ tôi chỉ
c̣n chờ một năm học nữa là tốt nghiệp
ĐHSP nhưng tôi chưa t́m ra cách nào lo xong việc bạch
hóa hồ sơ cho những năm ở chiến khu.
Tôi có cảm giác bị dồn đến chân tường,
bèn thu hết can đảm thưa với linh mục
T. :
Thưa Cha, con
đang kẹt vào một t́nh thế mười phần
nguy hiểm: Ở miền quê Quảng Nam, kẻ biết
chữ th́ cầm bút, kẻ ít chữ th́ cầm mă tấu
lựu đạn, mỗi người dân phải là một
người lính, khó ḷng mà sống như b́nh thường.
Quăng thời gian ấy giờ đây là cái khóa ḱm hăm
đường tiến thân của con, xin Cha giúp con xóa
nó bằng việc nhận con làm học sinh của
trường vào những năm ấy...
H́nh như Linh mục
Trần Hữu T. đă hiểu quá rành loại chuyện
ấy từ khi tôi chưa tŕnh bày cà kê như thế
nên chẳng thèm hỏi han nửa câu, lặng lẽ bê
nguyên quyển sổ cái to đùng, đặt ch́nh ́nh
lên bàn giấy Hiệu trưởng:
-
Anh điền được chỗ
mô th́ điền. Đừng làm lộ liễu quá
đáng màu mực và tuồng chữ.
Tôi rối rít cảm
ơn, cứ tưởng là ông c̣n phải chằm chằm
nh́n mắt tôi, vặn vẹo một hồi đă
đời rồi mới nhượng bộ lời
nài nỉ khẩn thiết của tôi. Cuốn sổ
cái của trường có đến vài chục ô chỉ
có số thứ tự c̣n họ tên và mọi chi tiết
lư lịch trích ngang hăy c̣n trống trơn, thế là tôi
có được bằng chứng hợp pháp đă
theo học Thiên Hựu từ niên khóa 1950 - 1951! (Đấy
là thời gian tôi c̣n sinh sống ở Tam Kỳ!). Sự
hợp pháp hóa nầy quá trắng trợn nên tôi chẳng
dám sử dụng vào dịp nào, bởi “bạn cùng lớp”
những năm ấy c̣n sống nhan nhản trong thành
phố, người ta cho đối chứng một vụ
nào đó là đủ cho tôi ốm đ̣n!
Cứ cho rằng
khâu hồ sơ của tôi đầu xuôi đuôi lọt
đi nữa tôi vẫn phảỉ hứng chịu mối
lo ngại to tát thứ hai là cuộc sống cá nhân của
tôi suốt thời gian du học nếu có.
Giả dụ người
ta thích gây một tiếng vang thời sự để
tố cáo cuộc chiến tranh phi nhân ư! Ban tổ
chức sẽ t́m bằng được một số
ṇng cốt có chút thành tích đấu tranh nào đó trong
quá khứ và tôi chớ ḥng khước từ nếu
không muốn nhận sự xử lư tệ hại
hơn. Và khi “phong trào phản chiến” như thế xảy
ra, giới điều tra liếc sơ sổ đen
là lượm được ngay kẻ họ cần
lượm! Và dấn tới một phát, họ moi các
thành viên Ban tổ chức. Những người cùng bị
bắt như tôi lại hùa nhau nghi ngờ chính tôi khai
ra họ chứ An ninh Mỹ th́ biết quái ǵ! Nói chung,
cả hai phe khó mà dời mắt khỏi tôi. Sống
trong nơm nớp như thế, làm sao giữ
được tâm hồn thanh thản cho được?
Chẳng tiến sĩ th́ đừng có mơ!
Mối lo ngại thứ
ba mới là chủ yếu. Nạp cho đủ lượng
tri thức xứng đáng với học vị ḿnh
đạt được là điều chẳng dễ
dàng. Lúc nào tôi cũng kiểm tra thấy ḿnh nghèo rớt
mồng tơi về tri thức, và chua chát thay, c̣n thấy
lắm người khác nghèo hơn! Từ ngh́n đời
nay, người Nga đă bỏ ngỏ một vụ
“căi chày căi cối” khá thú vị: Ăn món ngon trong chén
sành với ăn món dở trong chén sứ th́ nên chọn
chén nào? Suy ra, học giỏi nhưng không đỗ
cao, đáng quư hơn đỗ cao nhưng học
chưa giỏi. Tôi chưa bao giờ có ảo tưởng
rằng bằng cấp đè bẹp kiến thức.
Do đó, đỗ tiến sĩ chưa bao giờ là
món mồi ngon khiến tôi háo hức.
Lần thứ hai là một đề
nghị tập thể
Lần thứ hai tôi
“sợ” bằng tiến sĩ xảy ra sau lần thứ
nhất vừa chẵn mười năm. Bấy giờ
tôi đang dạy ở Viện Đại học Cộng
đồng Duyên hải. Trong một lần họp ban
Việt Hán của khoa Sư phạm, đủ mặt
các giáo sư Lê Hữu Mục, Nguyễn Văn Trung, Phạm
Văn Diêu cùng mấy học giả thỉnh giảng,
không nhớ là vị nào đă bảo tôi:
-
L. nên lấy mảnh bằng Tiến sĩ
đi! Không lấy, mai mốt sẽ có đứa nó
mang bằng ấy về hất cẳng đấy!
Tiếp theo lời
đề xuất ấy là mấy ư kiến bồi
thêm theo hướng vun vào, khiến tôi cảm kích gần
như bị choáng, không ngờ các vị ấy có thịnh
t́nh sâu sắc đến vậy về mối lo ngại
âm ỉ của tôi từ mười năm trước.
Tôi ngần ngừ một
lát rồi tỏ vẻ bất cần:
-
Nguy hiểm đến vậy sao? Nếu
có kẻ giở tṛ hất cẳng, con tự nguyện
“tẩu vi thượng sách” như ư hắn muốn. Ở
lại, hít thở cái không khí mất vệ sinh ấy,
chắc ǵ sống nổi? Con không nấn ná đâu!
Mấy hôm sau, Trần
Phước Hải - Trưởng pḥng Việt Hán - bảo
tôi:
-
Tao kể mầy nghe điều này, chắc
là mầy sướng lắm đây: T́nh cờ tao nghe
“các ông ấy” bảo nhau:
-
Thôi, chúng ḿnh đừng ép thằng L.
lấy bằng tiến sĩ nữa! Nó thừa sức
(?) dạy hạng tiến sĩ, giờ ép nó lấy bằng
ấy th́ liệu ai làm bảo trợ cho nó được
đây?
Những lời b́nh
sau lưng mà được vậy, kẻ nghe không thấy
khoái được chút nào th́ quả là hệ thần
kinh có sự cố nghiêm trọng. Không ngờ các cây
đại thụ ở ban Việt Hán Viện Đại
học Cộng đồng Duyên hải hồi ấy
đă đánh giá tôi bằng nhiều ưu ái đến
thế. Có lẽ các vị nọ chưa ai biết ǵ
việc tên tôi ngoan ngoăn nằm trong sổ đen An ninh
từ lâu và ba trường Công giáo trong thành phố mà
tôi cộng tác đă nhận được khuyến
cáo từ cơ quan an ninh địa phương! Mặc
nhiên các vị đă ngầm thừa nhận lập
trường “chén sành món ngon” của tôi, bởi “danh phù
kỳ thực” (danh tiếng nổi ph́nh trên thực chất)
từng được người xưa xếp vào
hàng “đại bất hạnh” kia mà! Người Trung
Quốc vốn có thành ngữ “văn nhân tương
khi” (giới văn nhân thường coi rẻ lẫn
nhau) nhưng sự biểu hiện ở ban Việt
Hán của Viện Đại học Cộng đồng
Duyên hải hồi ấy th́ phải gọi là “văn
nhân tương đắc” nghe mới chuẩn xác vậy.
Giáo
Sư Ngô Văn Lại 吳文賴老師
Việt Nam,
Tháng 05, 2011
|