Linh mục họ Cao đứng trên
hiên Toà Viện trưởng chậm răi “xướng
danh” (H́nh như đấy là cuộc xướng danh
cuối cùng ở Đại học Huế?). Đám
chúng tôi xúm xít rọ rạy dưới sân nghe bằng
tai, bằng mắt, có kẻ tham lam c̣n nghe cả bằng
mồm nữa. Vẻ mặt vị Viện trưởng
ấy vốn từng để lại cho tôi khá nhiều
ấn tượng mỗi khi nh́n trên ảnh, giờ
được nh́n người thật ngoài đời,
tôi háo hức quan sát cho tỉ mỉ, thế nhưng
trước mặt tôi là một chiếc đầu
tóc cắt ngắn lởm chởm chẳng hề chịu
yên chỗ, tôi lách mắt về phía nào cũng bị mớ
lởm chởm nọ bít lối ngay tức khắc
không sao t́m ra được vị trí thuận lợi
(tôi hạ quyết tâm là hôm nào vào học tôi sẽ “công
bố cáo trạng” cho hắn ta biết thân!).
Khi cái tên La Cảnh Hùng được
chậm răi xướng lên, đương sự ứng
tiếng “Dạ!” nghe thật hồ hởi, chất giọng
lại rất trẻ con khiến tôi không thể không
chú ư.
Đường Chi Lăng bấy giờ
hăy c̣n khá hẹp, tôi lại chưa đủ dạn dĩ
để đạp xe song song nên cứ đạp tà
tà theo sau, có lẽ anh ta không hề hay biết. Bỗng
anh dừng xe đột ngột, lôi xe đạp của
anh lên lề đường, đúng lúc ấy tôi trờ
tới. Tôi cất tiếng làm anh quay lại:
-
Anh Hùng ở đây à? Tôi là NVL.
Hùng hớn hở cười toe cả
miệng lẫn mắt, niềm nở mời tôi vào
nhà. Anh thân mật hỏi:
-
Răng khi năy gọi tên anh không “dạ”?
-
Mừng quá, cất tiếng không kịp.
Hùng cười h́ h́, toát ra vẻ
trung hậu hiếm có khiến tôi rất mến. Lập
tức, chúng tôi thân nhau, rồi sau đó, tôi lui tới
nhà anh tương đối nhiều lần.
Vừa vào cửa, một mùi “cóc chết”
xộc thẳng vào mũi. Tôi khổ sở gồng
ḿnh chịu đựng. Anh đưa tôi vào pḥng riêng,
đóng cửa lại, bật đèn:
-
Anh sẽ thấy dễ chịu
hơn. Ḿnh th́ quen rồi!
Đến lúc nầy tôi mới hiểu
ra chiếc đầu đinh cùng nước da sáng và mịn
của anh có liên quan mật thiết đến nghề
thuộc da thủ công. Pḥng anh không rộng lắm
nhưng được bày hai giá sách đầy ắp.
Hay ho lắm vậy thay! Th́ ra tôi đă gặp
được người đồng điệu.
Nh́n chung cuốn sách nào trông cũng cũ mèm, xỉn
màu, quăn góc chứng tỏ nhiều người
thường đọc chứ không ngụ ư phô phang chỉ
bày làm cảnh như ở nhiều gia đ́nh danh giá.
Tác phẩm của Lăo Xá anh có gần đủ, chiếm
phần đông đảo nhất, tôi bấy giờ
hăy c̣n chưa hề biết đấy là bút hiệu của
một nhà văn có tên là Thư Khánh Xuân (Ngay cả cái họ
Thư trong bách gia tính tôi cũng không ngờ có mặt
trên đời v́ tuy tôi từng đọc hai bộ
Đông Chu liệt quốc và Tam quốc diễn nghĩa
từ nguyên bản, thế nhưng tôi chưa hề gặp
nhân vật lớn nhỏ nào mang họ ấy!)
Điều quan trọng đối
với tôi là nhờ hai giá sách đầy ắp ấy
của anh, tôi mới biết đủ về cuộc
đời kỳ lạ của kỳ nữ Trần
Viên Viên c̣n khi lẽo đẽo đạp xe sau anh, tôi
hăy c̣n chưa biết đấy là đàn ông hay đàn
bà, nói chi là nhân vật lịch sử khá sôi nổi cho
thời cuộc, dính dáng đến các đại nhân vật
Ngô Tam Quế, Lư Tự Thành và c̣n là chất xúc tác góp phần
tạo ra triều Măn Thanh, tồn tại 267 năm trời
cho lịch sử Trung Quốc.
Chiều hôm sau, y hẹn, tôi chờ
anh đến để cùng dạo phố bằng xe
đạp.
Nhằm ngày Xuân, khí hậu Huế thật
lư tưởng cho thú nhàn du. Đến trước
trường Quốc học, phía đối diện là
băi đất bồi của lũ lụt để lại
(có lẽ từ cả trăm năm về trước!)
chúng tôi dừng xe bước lạo xạo lên băi cát
độc đáo ấy, bắt gặp chỗ bệ
tháp một chiếc ví da loại sang. Tôi khấp khởi
mừng, tưởng ḿnh được thần linh xứ
“chín chúa mười ba vua” sắp đăi một chầu
“món ngon xứ Huế”. Chúng tôi lôi mọi thứ trong
túi ra: một căn cước (tức giấy CMND
ngày nay), một tấm bằng lái ô tô, mấy tờ
hoá đơn, chứng từ nầy
nọ. Hùng bảo:
-
Của lăo chủ tiệm sách Ưng
H… đây! Lát nữa về cho lại lăo cho lăo mừng.
Qua khỏi cầu Trường Tiền,
tôi mang mọi thứ vào trao cho người đàn ông
ngồi chỗ thu ngân trông đúng y ś kẻ có ảnh dán trên mớ
giấy tờ nọ. Trong lúc lăo lục lọi kiểm
tra các giấy tờ, tôi tranh thủ đọc thầm
các tên sách ngoại văn trên giá.
Lúc tôi quay đầu lại đột
ngột, bắt gặp lăo đang nh́n tôi chăm
chăm, vẻ mặt chẳng có tí ti thiện cảm
nào. Lăo giải thích bằng lời lẽ rời rạc,
khó khăn:
-
Đêm qua … tiệm ni
… bị trộm… Cửa sắt bị …nạy… Hộc
quày … bị phá…
Trong lúc nói những lời ấy, mắt
lăo trừng trừng nh́n tôi gần như không nháy. Chó
má thật! Tôi giận điên người nhưng lại
chẳng biết ứng phó ra sao cho phù hợp t́nh h́nh ấy.
Chất giọng Quảng Nam của tôi hoá ra bất
lợi. Ác ư của lăo quá lộ liễu, nhất là cái
nh́n lăo phóng vào La Cảnh Hùng đang ngồi trên yên xe chống
chân hồn nhiên chờ tôi ngoài lề đường.
Ư lăo thật đáng nguyền rủa nhưng mồm
lăo có thốt lời nào đáng trách đâu? Tôi chả
có hướng nào hành động nên chỉ biết trừng
mắt nh́n lại lăo, bĩu môi một tí để tỏ
vẻ khinh miệt kẻ hồ đồ rồi từ
từ rời tiệm sách đồ sộ ấy. Tôi hối
hận v́ đă không xé sạch số giấy tờ nọ
và xé cho bằng được cả chiếc ví da kia
nữa cho dù trong quá khứ cách ấy chưa hề có
ai từng làm nổi.
Lẽ ra tôi căm lăo vô thời hạn,
dè đâu chỉ hơn tháng sau tôi buộc phải vào tiệm
lăo mua cuốn sách của Pierre Loti, mối căm hờn
bê tông cốt sắt của ḿnh đột nhiên như
dính bom nguyên tử siêu cỡ bốc hơi bay biến.
Cô thu ngân “hoa nhường nguyệt thẹn” của tiệm
lăo làm cho tôi hoá thành kẻ mang ơn lăo và tôi bắt
đầu “đánh giá cao” câu ca “Học tṛ trong Quảng
ra thi…”
Ngày nay chẳng rơ gă “thiếu nhi lâu
năm” La Cảnh Hùng trôi giạt những đâu, có c̣n
nhớ chuyện ấy không. Nếu vũ trụ nầy
có một ác thần nào đó mặc cả tôi đánh
đổi hành tung của gă bằng một số tuổi
thọ nào đó của tôi, chắc tôi không ngần ngại,
nếu ác thần ấy chỉ tham lam một vừa
hai phải.
Tiếp…
Người bạn thứ hai tôi kết
ngay ở buổi học đầu tiên là Dương
Trọng Khương, người Nha Trang. Anh viết
bảng chữ đều tăm tắp như lính diễu
hành có camera lót tót bám theo. Tôi phục lăn quay. Té ra
Khương từng tốt nghiệp bậc Tiểu học
của một trường Hoa, đă “đọc thông
viết thạo” thứ chữ … trời gầm ấy,
có nghĩa là tŕnh độ không tồi chút nào. Khương
trở thành bạn tri kỷ của tôi ngay từ hôm
đó cho đến tận ngày anh qua đời vào
năm 1993, sau mười một năm gà trống nuôi
con. Trong số bạn bè quá cố, mộ vợ chồng
anh là nơi tôi viếng nhiều nhất, lần nào cũng
ngồi cạnh bia mộ thầm th́ với anh tận
lúc hương tàn. Trong cảnh trời chiều bảng
lảng, nghĩa trang Đồng Ḅ chỉ c̣n lại một
ḿnh tôi. Lắm em bé được mẹ dắt ra tận
cổng vẫn c̣n ngoái cổ nh́n lại. Ông bảo vệ
nghĩa trang biết rơ là tôi từ Đà Nẵng vào
thăm mộ bạn nên không hề trách tôi lần nào về
tội báo hại ông trễ bữa cơm chiều ấy
là chưa kể có lúc c̣n bị vợ nghi ngờ là mất
nết. T́nh tri kỷ của Khương và tôi đáng
được viết bằng chữ hoa.
Ngày nay, tiến gần đến tuổi
80, nếu có ai đó hỏi tôi suốt đời
đă từng được người nào khâm phục,
kính ái thật ḷng chưa, tôi sẽ nhắc ngay đến
tên anh và chị Trang, vợ anh. Nếu bảo dẫn
chứng thêm một trường hợp khác, chắc
chắn tôi chịu bí.
Mười sáu năm nay, tôi chiêm bao
thấy anh cả thảy bốn lần. Tôi nhắc
điều nầy v́ nó không b́nh thường. Trong tất
cả các giấc chiêm bao khác, bao giờ tôi cũng cảm
thấy ḿnh đang sống thật, phải khá lâu sau
đó tôi mới nhận ra ḿnh chiêm bao nhảm nhí. Trái lại,
với anh, cứ chợt nhận nhau là tôi độp
ngay: “Ủa? Anh chết rồi kia mà!” Anh không nói lời
nào, lặng lẽ nh́n tôi, vẻ mặt dàu dàu rồi …
bốc hơi! Chưa một lần nào anh đáp lời
tôi và một điều lạ khác nữa là mỗi lần
tôi đều thấy vẻ người anh mỗi
khác: khi gầy thêm, khi béo hơn, khi mét mét đúng
như người ốm.
Suốt thời gian làm bạn với
Khương, song thân anh coi tôi như con của họ,
thậm chí c̣n gọi tôi bằng tên do họ đặt
cho: Anh C. (anh Khương chiếm tên A từ mấy chục
năm trước). Thật ra C vốn là tên dành cho
người con trai thứ ba trong số bốn anh em
trai và được đôn làm “đích tôn thừa trọng”
v́ được cha mẹ thương yêu nhất
(theo tập tục vai này thường là con trưởng
hay con út trong mỗi gia đ́nh). Phía bên vợ của
anh cũng dành cho tôi thứ t́nh cảm đậm
đà ấy (Nếu bắt tôi ghi tổng số bữa
ăn của hai nhà mời tôi, tất
phải dùng không dưới ba chữ số).
Nhắc bạn bè khoá I Viện Hán Học
Huế mà bỏ sót Phạm Liễu là điều không
thể châm chước thông qua và chắc hương hồn
anh chẳng thể nào tha thứ. Năm mươi
năm rồi nhưng tôi dám chắc mỗi sinh viên khoá
I ngày ấy dù kẻ chỉ c̣n vài phần trăm trí nhớ
đi nữa cũng vẫn không thể quên anh. Anh là một
phần tử say sưa tự khẳng định
ḿnh một cách tích cực nhất. Gọi Phạm Liễu
là “thợ quậy” của khoá I có lẽ lắm người
không phản đối.
Tôi biết Phạm Liễu từ hồi
c̣n ở Tam Kỳ. Trong một đêm văn nghệ quần
chúng, tôi làm khán giả, c̣n Liễu đảm nhận một
tiết mục ca nhạc: Anh hát bài Sáu Đậu giật
bom. Đó là năm 1949. Các bạn khác tôi chỉ quen sau
đấy đúng mười năm. Liễu chỉ
nhiều hơn tôi vài ba tuổi nhưng “dạn dĩ”
th́ hơn tôi gấp vài ba chục lần! Ai biết Liễu
đều không nghi ngờ lời tôi vừa kể.
Ngay tiết Văn đầu tiên, Liễu
đă tạo dấu ấn cho sự xuất hiện của
ḿnh khi thầy Dật khuyên học tṛ phải hết sức
chú trọng chính tả. Thầy hỏi xem ai tin ḿnh viết
đúng Việt ngữ, Liễu lập tức giơ
tay đầy tính cạnh tranh. Anh bị hố to v́ chả
ai có đủ liều lĩnh dám cạnh tranh thứ
việc đầy bất trắc ấy. Riêng Liễu
không hề tỏ ra một micrôgam lo lắng nào, cầm
phấn đứng trước bảng bằng vẻ
mặt hí hửng của kẻ vừa ḍ trúng số,
không hề biết ḿnh đang lọt thỏm vào bẫy
ngon ơ.
Thầy Dật gọi Liễu lên bảng
chứng tỏ khả năng. Thầy ứng tác một
câu dài, có nhiều chữ khó, cốt “khoét” sâu ḷng tự
tin quá trớn của anh. Tôi được giao việc
“cạo” vết khoét - như kiểu lấy mủ cao
su - bằng cách chữa cho đúng mấy chữ sai
chính tả. Tôi chắc cựu sinh viên khoá I rất ít
người c̣n nhớ chuyện nọ tuy đấy
là bài học nhớ đời cho người cầm
bút vi mô lẫn vĩ mô.
Một lần nọ Liễu và tôi
song song xe đạp ra đến cửa Thượng
Tứ, anh dừng xe đột ngột, nh́n thẳng
vào mặt tôi:
-
Nè, môi cậu tím tái hết rồi kia ḱa! Lấy cái áo này mặc kẻo hại
phổi chết!
“Rooẹẹt” một tiếng, chiếc
“phẹc-mờ-tuya” bị anh kéo ra nửa chừng, tôi
nhanh tay chộp ngay chỗ dưới ngực buộc
anh khựng tay. Tôi lắc đầu:
-
Ḿnh quen chịu lạnh rồi. Không
sao đâu!
-
Cậu không thích áo blouson à? Áo len vậy
nhé!
Anh lôi chỗ ngực chiếc áo len
màu nước biển ra khỏi phẹc-mờ-tuya áo blouson.
Tôi khoá chặt cổ tay anh, hạ giọng
cương quyết:
-
Nhất định là không đâu
đấy.
Liễu hiểu nhầm tôi là kẻ
khái tính nhảm nhí. Thật ra, trước ngày thi vào Viện
Hán Học Huế, nghề sinh nhai của anh rất
thường tiếp xúc với công chúng phố xá, ngay
cả đến trẻ con có lẽ cũng quen nhận
ra hai chiếc áo ấy, nay bỗng dưng có một chiếc
thuộc về tôi, kẻ nghĩ xấu có thể cho rằng
do bộp chộp thôi nghề cũ nên anh gặp bước
khốn cùng hoặc cho rằng tôi có áo ấy bằng …
thủ đoạn nào đó rất đáng chê trách.
Người ta nghĩ thế nào cũng đều có hại
cho tôi v́ tôi đang kiếm cơm bằng nghề … “vú
đực” tức là kèm trẻ tại gia.
Một hôm, nộp bài làm văn tại
lớp xong, Liễu hỏi tôi:
-
Cậu làm được mấy
trang?
-
Sáu!
-
H́ h́ … Ḿnh mười hai trang.
Tôi rất hiểu thâm ư của anh,
hiểu cả cách chừa lề, viết sải cố
t́nh chơi trội, nhất là vẻ hiu hiu tự đắc
không thèm giấu giếm của anh làm tôi hết sức
khó chịu nên trả đ̣n ngay:
-
Ḿnh tính mỗi trang hai điểm là
vừa (thầy Dật khống chế điểm rất
chặt. Tôi coi đấy là phương pháp sư phạm
sáng giá). Chả lẽ cậu chỉ mong mỗi trang nửa
điểm thôi à? Nếu vậy th́ phải cố làm
cho được hăm bốn trang chứ!
Liễu sầm mặt lại, rất
căm cái kiểu “đỡ đ̣n” lại ra tay nặng
hơn cú “ra đ̣n”.
Quả
nhiên bài tập ấy anh chỉ đạt sáu điểm,
c̣n tôi mười hai (Theo hệ điểm trên 20). Anh
rất uất v́ mưu đồ sửa trị “tật
vô lễ” của tôi không có cơ thực hiện. Theo lời
kể của thầy Dật th́ ngay chiều hôm ấy,
Liễu đến nhà thầy trách:
-
Thầy đă làm mất uy tín của
con.
Thầy trố mắt (kiểu ngạc
nhiên rất “hề” này là …thế mạnh về độ
duyên dáng của thầy):
-
Anh có uy tín thiệt ư? Răng
không cho tui biết trước? Như rứa đời
mô tui dám làm mất?
Chuyện định giá trang viết
thành thứ hàng hoá, tôi chỉ thấy ḿnh hóm hỉnh chứ
chả ác ư ǵ nhưng t́nh h́nh diễn biến như vậy
khiến Liễu rất căm tôi (chứ không căm
thầy Dật). Không đầy một tháng sau, anh ta
có được dịp thật tuyệt vời để
tọng cho tôi một quả đắng khá ngộ.
Hôm ấy có cuộc meeting chả nhớ
là nhằm mục đích ǵ. Tôi đang đứng cạnh
Liễu th́ có tiếng gọi tên anh từ xa. H́nh
như là bạn cũ của anh. Người nọ tiến
đến bắt tay Liễu. Liễu không giới thiệu
tôi với bạn cũ nên tôi lặng lẽ cuốn
xéo cho đỡ sượng nhưng vẫn kịp
nghe thoáng sau lưng ḿnh mấy lời trao đổi của
họ. Một giọng Bắc cất lên:
-
Này, cậu biết thằng NVL đấy
chứ?
-
Biết! Sao?
-
Nó học giỏi thực hay chỉ
là … chó ngáp nhằm ruồi?
-
H́nh như là vậy!.
Câu nầy anh đáp hơi rướn giọng một
cách cố ư.
(Sau
đấy mười lăm năm trời, t́nh cờ
tôi được một nữ sinh viên tặng thầy
một bản nhạc Trịnh do cô ta sao chép. Nhạc
và lời màu trắng trên nền tím. Bấy giờ tôi
mới khám phá cách thực hiện lạ đời:
tŕnh bày bằng viết ch́, tô màu phần c̣n lại, sau
đó tẩy xoá nét bút ch́ (quả là công phu vào hàng
thượng thừa nhưng chả thấm tháp ǵ so với
một kẻ nọ cũng dùng lối ấy chép trọn
bộ Việt Nam sử lược của Trần Trọng
Kim!). Bấy giờ tôi mới gom thêm khá nhiều sự
kiện khác và “ngộ” ra tính cách nhân vật Phạm Liễu:
anh chỉ cần đến tôi để làm cái nền
màu tím nọ, c̣n có xoá được vết viết
ch́ hay không là chuyện của riêng anh!).
Tôi nhắc thêm một kỷ niệm
khác để minh chứng ḿnh không hấp tấp nhận
xét hồ đồ, hời hợt:
Năm 1963, hai đứa cùng ghi danh
chứng chỉ Hán văn. Liễu thương lượng
khá bất ngờ:
-
Ḿnh đang dạy Nguyễn Du, cần
phải có uy tín. Cậu nhường cho ḿnh đỗ
đầu kỳ nầy, kỳ sau cậu hăy thi nhé!
Tôi không cam tâm nhận thân phận “mực
tím” - bị người
ta đem tô màu ch́m - nên nổi sùng dồn cho Liễu một
hơi:
Thứ nhất, nếu kỳ
II ḿnh ốm th́nh ĺnh không dự thi được th́ cậu
tính sao?
Thứ hai, cậu nghĩ
rằng ḿnh đậu đầu, cậu đậu
thứ nh́ là “mất uy tín” cho cậu hả?
Thứ ba, chưa thi sao cậu
… ấn định kết quả dễ dàng như vậy?
Thư tư, nếu cậu
cho rằng ḿnh chịu nhường theo kiểu ngớ
ngẩn ấy th́ nhất định cậu đỗ
đầu được ư? Nếu đă tính toán
chắc cú như vậy, sao cậu không nán lại thi kỳ
sau, cho khỏi bị ai giành giựt ǵ cả? Việc
ǵ lại phải mất công thương lượng
vô vọng như vậy?
Thứ năm, ḿnh không dám
chắc sẽ đỗ đầu. Cậu cũng
chưa chắc sẽ đỗ nh́. Học tài thi phận
nữa chứ! (Quả nhiên anh không đỗ nh́ kỳ
thi ấy).
Thứ sáu, ḿnh đi thi bất
quá cũng như mọi thí sinh khác, sao cậu nỡ
nghĩ là ḿnh cố t́nh giành cái thủ khoa đang nằm
trong tầm tay cậu? Cậu có định … giữ
đạo người quân tử không vậy?
Nói chung, chơi với Liễu tôi chịu
bực quá nhiều lần (có lẽ gấp bội tổng
số lần của các bạn c̣n lại!). Cũng may
là t́nh đồng hương trong tôi đủ mạnh
để trấn áp những bức xúc của tôi.
Năm 1984 có dịp đi Sài G̣n, tôi
năn nỉ rất nhiều, giải thích rất nhiều,
hai đứa con anh mới chịu mở cổng cho
“người lạ” vào thắp hương trước
bàn thờ bố chúng. Tôi khấn trước di ảnh
của anh, rằng đă tha thứ cho anh tất cả,
đồng thời xin anh thông cảm cho tính khôn vặt
cùng thói vạ miệng của tôi. Mấy con anh nay có lẽ
đạt tuổi “bất hoặc”, có một đứa
trông thật giống anh về diện mạo.
Thái Trọng Lai 太重来
Đà Nẵng, Việt Nam, 2011
|