Những người
lơ đễnh cứ tưỡng ngành giáo dục
Sài G̣n trước 1975 đă lạm dụng từ ngữ
nên dùng tràn lan chức danh giáo sư cho cả Trung học
lẫn Đại học. Kẻ dạy lớp 6 cũng
giáo sư như người hướng dẫn làm luận
văn tốt nghiệp.Thật ra có một qui ước
thỏa đáng, chẳng hạn danh thiếp ghi “ông Lê
Văn X, giáo sư” th́ dùng cho trường hợp
trước c̣n “giáo sư Lê Văn X” th́ dùng cho trường
hợp sau.
Nhiều người
tưởng rằng cách gọi ấy gây nên sự phân
biệt “chiếu trên, chiếu dưới” nhưng thật
ra cách gọi ấy mới thật là cụ thể hóa
chính xác nhất cho tinh thần tôn sư trọng đạo.
Kẻ đă không tôn sư th́ chẳng bao giờ trọng
đạo được. Chủ trương “cào bằng”
là giáo viên, trong thực tế xuất phát từ thái
độ xem nhẹ vai tṛ của giáo dục trong xă hội.
Ai cũng hiểu chữ
“khinh” có nghĩa là “nhẹ”, nhưng khi người ta
“coi nhẹ” nghề giáo mà không hiểu đấy là
“coi khinh” nền giáo dục th́ thật vô cùng ngớ ngẩn!
Gọi nhà giáo là “giáo viên”, tức coi họ là một thứ
“nhân viên ngành giáo dục” tức cùng giuộc với
“nhân viên bảo vệ”, “nhân viên văn pḥng”, “nhân viên
công ty vệ sinh” v.v… Lạ một điều là khi cào
bằng ngành giáo viên, người ta lại không gọi
“tôn viên trọng đạo”, có lẽ v́ tưởng rằng
chữ “sư” trong giáo sư với trong tôn sư là hai
chữ khác nhau(!) Tôi được biết rằng thực
tế đă từng có chủ trương gọi “giáo
viên Đại học”, “học sinh Đại học”
nhưng… bàn tay không che nổi mặt trời!
Giáo sư phụ khảo
là bậc thấp nhất trong hàng ngũ giảng dạy
Đại học. Từ chân một giáo sư Trung học,
tôi bước sang ngay giáo sư Phụ khảo Đại
học thật khá bất ngờ và chỉ mất một
lượng thời gian có thể tính bằng … sát na
(đơn vị nhỏ nhất đo thời gian.
Kinh Phật viết rằng một cú búng ngón tay mất
th́ giờ đến …60 sát na, một cái nháy mắt mất
40 sát na!).
Bấy giờ là
năm 1972, tôi đi chấm giải “Văn
chương phụ nữ” ở Sài G̣n. Thời ấy
hành khách di chuyển bằng máy bay có thể tập
trung tại trụ sở hàng không, đến giờ sẽ
có xe đưa lên máy bay hoặc cứ việc đi thẳng
lên sân bay cho đỡ phải chen chúc ồn ào ở trụ
sở hoặc trên xe ca. Tôi chọn cách này.
Pḥng đợi của
sân bay bay Tân Sơn Nhất lúc ấy vỏn vẹn có một
khách chờ. Ngay đến nhân viên hăng hàng không cũng
c̣n chưa tới làm việc. Trả tiền xích lô
xong, tôi quay lại đă nhận ra ông thầy cũ
đang mỉm cười đứng nh́n về phía
ḿnh. Đấy là giáo sư Lê Hữu Mục. Tính ta thầy
tṛ chúng tôi đă bặt tin nhau gần chín năm trời.
Hồi ở Đại
học Sư phạm Huế, ông được coi là
“người của cha Luận” (Linh mục Cao Văn
Luận,Viện trưởng Đại
học Huế) nên ông phải đương đầu
với hai thế lực chính trị khá nặng cân là
Phật giáo Huế và đảng Đại Việt.
(Đấy là chưa tính sự lợi hại của
hai tổ sinh viên Giải phóng thường làm chất
xúc tác bí mật và khá tích cực cho các lực lượng
nọ).
Giảng dạy trong
lớp, thỉnh thoảng ông chỉ nói riêng với tôi
câu: “phải thế không L?” Câu hỏi ấy dễ chạm
tự ái các bạn trong lớp. Họ cho là ông chỉ
“ngắm cây” mà không thèm “nh́n rừng” và họ cho tôi là
“gia nô” gốc bự, nhất là thấy tôi mang họ
Ngô, đúng là chắc…
như bắp! Họ cứ cho là tôi đắc ư
có thừa v́ được ông “để mắt xanh”
đến thế mà không hề biết là tôi c̣n khó chịu
v́ điều ấy hơn họ rất, rất nhiều.
Tôi cho là măi đến nay, những bạn cùng lớp
ngày ấy cũng chưa ai nhận ra ở tôi điều
khó chịu thầm lặng đó dù họ đă dày thêm
vốn sống khá nhiều. Tôi khó chịu v́ kiểu hỏi
như vậy ngụ ư rằng ông ngầm coi tôi là một
gă “Quăng Nam hay căi”. Cái kiểu hỏi như vậy chẳng
khác nào bảo: “Cậu có căi ta không đấy?”
Lại có lần
không nhớ là ông đang giảng dạy phần
văn học sử nào, bỗng dưng ông gọi tôi
lên bảng viết chữ “Điển” … cho mọi
người cùng xem.
Tôi bực bực nghĩ
thầm “Chữ Điển th́ có quái ǵ đâu mà ông bày
tṛ lôi thôi thế nhỉ?” Rất lâu sau này tôi mới hiểu
ra đấy là mánh khóe đặc biệt của ông: Tạo
điều kiện cho học tṛ đấu lư, đấu
trí và ông làm trọng tài. Tôi cho đấy là cách tạo
uy tín, tạo ảnh hưởng khá hay ho.
Tôi lên bảng với
ư đồ … hơi xỏ lá. Tôi lau bảng - đúng ra
là tôi kỳ cọ - thật lâu, thật kỹ tận
mọi ngóc ngách (ông đă cố t́nh bày tṛ này để
câu giờ th́ tôi “câu” cho ông… chết luôn!)
Lau xong bảng, tôi bốc
luôn một lúc hai viên phấn (pḥng lúc găy hay đánh
rơi, cần có sẵn để tiếp tục ngay
cho tṛ đỡ nhạt). Đến lúc ấy ông vẫn
chưa biết tôi “đựng ǵ trong hồ lô” theo lối
nói của người Trung Quốc. Khóe mắt ông
hơi nheo lại rất nghịch ngợm để
quan sát tôi. Tôi gí mạnh viên phấn viết theo
đường viền của chữ Điển,
choán trọn cả mặt bảng. Công bằng mà nói, rất
ít người có dịp thấy cỡ chữ to đến
thế ở ngoài đời.
Viết như vậy
mới đáng coi là … cho mọi người cùng xem măn
nhăn chứ! Không biết ông ta có nghĩ “Thằng quái
này có thần kinh không đây? Bảo nó viết một
chữ mà nó tương ra cả một bảng!” Mặt
tôi lạnh tanh, chắc làm ông thắc mắc chút đỉnh
nhưng ông kịp thời xử lư ngay.
Ông quay nh́n cả lớp,
trợn mắt rất hề rồi bảo:
-
Đúng là nét bút “đại khoa”!
Sau này, vào năm 1983
(tức là tận 21 năm sau!), t́nh cờ một nhà
giáo nổi tiếng từng giữ trọng trách ở
Trung tâm Học liệu Bộ Giáo dục Sài G̣n, gởi
thư nhờ tôi viết cho mươi chữ Hán mà ông
cần đưa vào cuốn biên khảo về Hàn Mặc
Tử do ông viết bằng Pháp văn cho UNESCO. Việc này ông nhờ
một người học tṛ cũ thân tín t́m hộ và
anh ta giới thiệu tôi. Nhân việc ấy tôi mới
biết rằng từ ngày cùng học với nhau, anh ta
đă hoàn toàn hiểu sai lời đùa cợt nọ của
ông Mục. Ông dùng từ “đại khoa” để ngụ
ư tôi “vung tay khắp bảng” th́ anh và một số bạn
trong lớp lại nhầm là ông đề cao tôi quá bừa
băi, coi tôi ngang hàng với các cụ Hội nguyên Đ́nh
nguyên ngày xưa! Và chính điều hiểu nhầm ấy, họ
nhầm tiếp tôi là “đệ tử ruột” của
ông Mục.
Tiếp… (1)
Khi “nhà Ngô” sụp
đổ, ông Mục tránh xuất hiện ở phố
xa xứ Huế. Một số bạn trong lớp tôi
c̣n có ư đồ “làm cách mạng” muộn màng bằng
việc … lên kế hoạch đốt xe ông, dưới
danh nghĩa Phật giáo “xử” Công giáo. Biết chuyện
ấy tôi hết sức bất b́nh (đă chọn ngành
Sư phạm sao c̣n có thể hành động đầy
máu dao búa như vậy được!) tôi bèn phản
đối họ với lời lẽ hết sức
gay gắt đến nổi tôi bị các bạn ấy
rượt đánh, may nhờ sẵn đang ngồi
trên xe gắn máy nên tôi vù kịp, bằng không, chắc
tôi đă phải nhận tiếng “đáng đời”
quá ư tùy tiện của công luận thời ấy.
Bấy giờ
đám sinh viên Huế bị quá nhiều lực tác
động đến gần như mất cả lư
trí. Một bằng chứng chua chát là chỉ mới
trong dịp tết cách đấy chưa lâu, cả lớp
chúng tôi kéo lên cư xá giáo sư thăm ông ốm. Đến
đấy mới biết là ông chỉ tránh mấy tiết
dạy nhạt nhẽo sau nghĩ tết nên cáo ốm
(lại là thủ đoạn bảo vệ uy tín của
ông!). Ông mang ra mấy xâu nem và hai chai whisky đăi học
tṛ. Cả bọn “đánh” tới tấp cả nem lẫn
rượu, cười nói râm ran thích thú. (Vậy mà khi
có kẻ hô: “Quên đi!” là họ quên cái rụp như
lính làm theo khẩu lệnh chỉ huy!), cứ tưởng
là tôi mới có quyền khinh họ, ai dè họ lại
nghĩ ngược! Hôm ấy, tôi không may mắn
được nhậu măn cuộc như các bạn v́
ngay từ đầu đă bị ông mang ra khoe hai bài
thơ thiền mới dịch. Tôi gật gù khen hai câu,
ai ngờ ông la toáng lên, gọi vọng xuống dưới
nhà:
-
Này nhà nó ơi! Lên đây xem thằng
NVL nó chịu khen tôi rồi đây này!
Bà Mục lặng
thinh không đáp c̣n tôi th́ lạnh toát cả người
v́ nhớ lại chuyện cũ.
Ba năm về
trước, hồi tôi đang c̣n theo học ở Viện
Hán học Huế, ông đă hỏi một người
bạn cùng lớp tôi, bảo anh ta rủ tôi đến
nhà ông chơi (lư do duy nhất là ông muốn nh́n tận
mặt kẻ được ông cho điểm rộng
răi trong bài thi tuyển). Trong câu chuyện, ông khoe mấy
bài thơ mới dịch rồi hỏi:
-
Hay không?
Tôi đáp là … chưa
được hay.
Giờ đây ông réo
bà như vậy , khiến tôi suy ra rằng
năm ấy có lẽ ông bị bà “sửa lưng”
đích đáng về sự vụng về, ai đời
nhè một thằng Quảng Nam như tôi mà đ̣i nó
khen nịnh là đại thất sách. Lần ấy tôi
c̣n nói năng lắm điều láo lếu khác, nếu
tôi là ông, có lẽ măn đời tôi cũng không tha thứ,
nhưng ông vẫn ḥa nhă tiếp tục chuyện tṛ
b́nh thường. (Ngày nay, khi tổng kết mọi
chuyện, tôi bái phục bản lĩnh hiếm có ấy
của ông. Ông tha thiết khuyên tôi nên thi vào Đại
học Sư phạm ngay lúc vừa nhận xong mấy
lời lếu láo quá đáng của tôi). Ông ta phân tích:
-
Người như cậu, nên thi vào
Sư phạm để học xong ở lại dạy
cho trường. Nếu cậu tốt nghiệp Viện
Hán học, phải vượt bao nhiêu lớp rào cản
cũng chưa chắc được dạy Sư phạm
đâu!
Tôi đáp:
-
Ở Hán học, con chỉ c̣n hai
năm nữa là ra trường. Vào Sư phạm làm ǵ
cho tốn thêm một năm nữa ạ?
Ông không bác bỏ ư kiến
tôi mà chỉ dặn:
-
Cậu về nghĩ lại đi kẻo
muộn đấy nhé!
Tôi bắt đầu
thấy mến đức điềm đạm thật
quân tử ấy ở ông. Lẽ ra ông nên chuyên ngành ngoại
giao hoặc làm lănh tụ chính trị mới hợp.
Ít lâu sau, t́nh cờ gặp
ông ở pḥng Văn học sử. Pḥng này do ông Lê
Văn Hoàng làm “trụ tŕ”. Ông Hoàng vốn là thư kư
riêng của Phạm Quỳnh nên tôi moi được
nhiều thông tin quí báu về nhân vật ấy ở
ông. Đang hầu chuyện ông Hoàng th́ ông Mục đi
ngang ngoài cửa sổ. Nhận thấy tôi, ông dừng
lại hỏi:
-
Này, cậu nộp hồ sơ dự
thi rồi đấy chứ?
Tiếp… (2)
Tôi thưa là chưa
nộp. Ông quắc mắt giận dữ, tới tấp
la cho tôi một hồi rồi bỏ đi. Cứ
tưởng là tôi đă trân ḿnh chịu cho ông xài xể
như vậy là ông hết giận, ḿnh đă yên thân,
nào dè một lát sau, ông quay lại, vẫn đứng
ngoài cửa sổ, bảo:
-
Này, ta nói với thằng Tùng rồi, cậu
về viết ngay lá đơn đưa nó. Mọi hồ
sơ khác nộp sau. Nhớ đấy !
Th́ ra ông chỉ sốt
sắng với cái trường ĐHSP của ông chứ
có thèm đếm xỉa ǵ ư nguyện riêng của tôi?
Tôi hơi tự ái, măi về sau rất lâu tôi mới
xúc động nao ḷng về thứ nhiệt t́nh vun
đắp cho tôi lẫn cho trường nọ. Ông quan
tâm đến tôi không khác ǵ đối với một
thành viên ưu ái trong gia đ́nh ông.
Hạn nộp
đơn vốn đă hết veo từ tuần
trước. Cuối tuần này là thi. Tôi cứ tưởng
ông đành phải lơ tôi, và tôi lánh mặt ông kể
đă ḥm ḥm, ai ngờ ông ốp tôi cho bằng
được, lại bất chấp nguyên tắc
hành chánh nữa (Ai tố ra là ông lănh đủ) Tôi vâng
vâng dạ dạ cho qua truông qua ải.
Ông Mục đi
đă lâu, tôi cũng đọc thêm được vài
chục trang sách quí. Th́nh ĺnh ông Hoàng bảo tôi:
-
Ń, anh L, ông Mục nói rứa, nhưng
răng tôi thấy anh không có ư nghe ổng phải không?
Tôi đáp:
-
Cụ tinh quá. Thật t́nh con không có ư
định làm theo ư ổng đâu.
Ông Hoàng ôn tồn:
-
Điều ni tôi nghĩ rất nhiều
nên mới nói với anh đây, Tui ngồi đây mấy
năm ni, chưa hề thấy ông Mục quan tâm tới
ai. Đi dọc hành lang ông cứ lầm lũi sải
bước không cho ai đeo bám. Lần ni là chuyện
tui thấy rất lạ đó! Ở đời có nhiều
khi ḿnh không quyết định đúng đắn cho
ḿnh được mô. Phải có người khác xen vào
lái ḿnh theo hướng định mạng. Người
ấy là quí nhân đó. Ông Mục có khi là quư nhân của
anh. Anh nên theo lời ông ấy mới phải.
Té ra “mưu sự” tại
ông Mục, c̣n “thành sự” th́ tại ông Hoàng. Tôi theo nghề
dạy học là vậy.
Thế là tôi trở
thành sinh viên Sư phạm sau cuộc thi tuyển. Vả
lại tôi cũng đă cùng đường. Viện
Hán học Huế vừa có quyết định chính thức
đuổi học tôi về tội thiếu chuyên cần,
cứ “cúp cua” bỏ đi nghe giảng ở Văn
khoa. Năm trước tôi đă nhận hai lần cảnh
cáo nhưng vẫn chứng
nào tật nấy.
Giữa năm học
thứ hai của tôi ở Sư phạm th́ ông Mục
gặp nạn. Đại học Huế rối beng. Bốn
luồng gió chính trị gây lốc: Công giáo, Phật
giáo, Đại Việt, Giải phóng. Ông Mục “lặn”
luôn vào Sài G̣n từ 1963, măi 1972 tôi mới t́nh cờ gặp
lại ông ở sân bay Tân sơn nhất này.
Bắt tay xong, ông bảo
ngay, vẫn bằng cái giọng áp đặt:
-
Cậu dạy Đại học nhé!
Tôi đáp vâng.
Ông thoáng vẻ ngạc
nhiên khi thấy tôi nhận lời quá mau mắn. Cứ
như tiếng “vâng” nọ dính sẵn chỗ nào đó
trên người tôi. Giọng ông vừa chạm đến
màng nhĩ tôi là tiếng vâng nọ văng ra tức
th́. Ông thắc mắc:
-
Sao trước kia cậu không nhận
mà giờ lại nhận?
-
Thưa thầy, tại v́ ngày xưa
con chứng kiến quá rơ thân phận lơ láo của
giáo sư phụ khảo c̣n quá mới. Thầy cũ
th́ chưa cho b́nh đẳng, sinh viên th́ chưa nhận
thật ḷng. Điều ấy bấy giờ con đă
nói với thầy rồi kia mà!
-
C̣n bây giờ?
-
Bây giờ th́ nhàm chán việc dạy
Trung học lắm rồi ạ. Học tṛ mỗi
năm học cái mới, c̣n thầy th́ năm nào cũng
tự biến thành loài nhai lại, không nhàm không ngấy
cũng không được. Dạy Đại học
để thay đổi không khí một chút ạ!
-
Được. Ta sẽ giới thiệu
cậu với lăo Viện trưởng Đại học
Nha Trang. Lăo nhờ ta t́m giáo sư dạy ở đấy,
ta đă nghĩ đến cậu ngay.
Ông mở cặp lấy
giấy ra viết thư. Được nửa chừng,
ông dừng bút bảo:
-
Một ḿnh cậu không kham xiết
đâu. Cậu kiếm cho ta một đứa nữa.
Tôi nêu ngay cho ông một cái tên. (Hóa ra chính anh chàng đẻ
bọc điều này mới thực là nhanh hơn tôi
xa: Chỉ một tháng sau, anh ta đă chuyển ngành,
hưởng lương mới rồi khi đến
tuổi 63, anh cũng sang thế giới bên kia nhanh
chóng nốt!)
Viết thư xong,
ông cho vào bao thư, dán lại tử tế rồi trao
tôi.
Tôi thầm nghĩ
“sao lại dán? Thư tay mà!” Trong lịch sử lẫn
dă sử, hay tuồng, kịch v.v… đă có hơn một
trường hợp xảy ra việc ông lớn
nơi này mượn tay ông lớn nơi kia thủ
tiêu kẻ mang thư để tránh mang tiếng bất
nhân và đỡ bị cấp dưới của ḿnh
mè nheo, thắc mắc. Nhưng loại thư tôi cầm
th́ làm ǵ “to chuyện” đến thế? Hay là chỉ
v́ ông ta làm theo quán tính?
Ông cắt ngang ḍng
suy nghĩ của tôi.
-
Cậu có biết v́ sao ta giới thiệu
cậu cho lăo Viện trưởng ở đấy
không?
-
Dạ không ạ!
-
Là v́ … ta ghét cậu. Cậu giỏi, mà
Đại học ở đấy nhất định
sẽ có ngót phân nửa là học sinh cũ của cậu.
Gặp thầy mới dạy dở, thế nào chúng cũng
sẽ kể lại với cậu để rồi
có ngày sinh viên căi lại giáo sư, thế là cậu gián
tiếp phá hoại Đại học! Hiểu không? Cậu
phải dạy ở đấy th́ chuyện như thế
mới khỏi xảy ra. Đúng không?
Ông nói một hơi
toàn những lời thật tâm huyết, thật chí
t́nh chí lư khiến tôi tuyệt đường tránh né.
Nghe ông nói, tôi nhận ra ḿnh là một phần tử thật
nguy hiểm, điều mà khi ông chưa nói, tôi hoàn toàn
không hề nghĩ tới. Ông làm tôi muốn… sợ cả
cái bóng của chính tôi! Tầm nh́n chiến lược ấy
của ông thật sáng tỏ, thật sâu sắc. T́nh huống
ông dự kiến quả là không thể không xảy ra.
Có khi c̣n xảy ra thường xuyên nữa là khác! Tôi ngờ
ngợ ông đă nhấn mạnh chính điều này
trong lá thư dán kín kia cũng nên. Có lẽ ông tưởng
tôi với ông Viện trưởng nọ chưa hề
quen biết ǵ nhau nên ông hù dọa để bắt buộc
ông ấy không thể không nhận tôi.
Tiếp… (3)
Về đến Nha
Trang, tôi không trao lá thư ông giới thiệu tôi. Tôi
định để ông Viện trưởng nọ tự
ư mời. Tôi chịu ảnh hưởng nhân vật Hữu
thừa tướng Bàng Thống trong truyện Tam quốc
diễn nghĩa, chỉ lấy tài sức ḿnh làm gốc,
coi nhẹ chuyện gởi gắm, giới thiệu.
(Trong Tam quốc diễn nghĩa, Khổng Minh nhân
đi công cán, cố thuyết phục Bàng Thống về
phục vụ Lưu Bị - v́ sợ Tào Tháo nẫng
tay trên! - Bàng nhận lời. Khổng Minh viết
thư tay giao Bàng Thống trao Lưu Bị. Trong thư
nhấn mạnh việc trọng đăi Bàng Thống,
trao họ Bàng chức Hữu thừa tướng -
như phó thủ tướng ngày nay - Bàng Thống thấy
anh em Lưu Bị cậy có sẵn Khổng Minh nên
không mặn mà ǵ với ḿnh bèn bất măn không tŕnh
thư ra. V́ vậy Bàng chỉ được giao cho chức
huyện lệnh một huyện nhỏ.
Khổng Minh công cán về,
hỏi thăm Hữu thừa tướng đến
nhận việc chưa, bấy giờ Lưu Bị mới
bật ngửa, hối hả lôi Quan, Trương dẫn
tả hữu đến huyện nọ đón Bàng Thống
về.)
Một hôm nọ, tôi
lững thững một ḿnh ra biển ngắm mặt
trời lặn. T́nh cờ tôi gặp cả một
băng của Đại học ấy, nào là Khoa
trưởng, Tổng thư kư, Trưởng pḥng giáo vụ
cùng một số người khác. Tay bắt nhưng mặt
chưa mừng ǵ lắm v́ các vị ấy là chủ,
tôi c̣n đang là khách. Viên Khoa trưởng lên tiếng
trước:
-
Anh L, qua bên này dạy cho một số
giờ nghe!
Tôi đáp:
-
Tôi chưa sẵn sàng cho lắm. Tục
ngữ Trung Quốc có câu “Thà làm đầu gà, đừng
làm đuôi trâu” (nguyên văn: Ninh vi kê khẩu, vô vi
ngưu hậu)
Viên Khoa trưởng bỗng cau mặt:
-
Vậy
theo anh th́ bên này ai là trâu?
“Bỏ mẹ!” Lại
vạ miệng mất rồi! Tôi chua chát nghĩ thế!
Anh ta đă găm câu nói ấy th́ tôi thật khó xử
lư. Giải thích cặn kẽ có nghĩa là tôi cho rằng
anh ta dốt chữ mất! Dễ ǵ một Khoa trưởng
vừa lấy bằng Tiến sĩ kỹ sư
điện tử ở Pháp về lại chịu nghe
một anh giáo tỉnh lẻ giải thích từ ngữ?
Tôi chống chế nhưng vẻ mặt anh ta vẫn
không dịu đi được chút nào:
-
Ư tôi
nói là dạy Trung học cho khá, tốt hơn dạy
Đại học c̣n kém.
Câu tục ngữ Trung Quốc nọ chỉ có
nghĩa như vậy thôi.
Tôi biết rằng sau đó câu tục ngữ ấy
sẽ c̣n bị họ ghét khá lâu.
Khi ông Mục cùng một loạt giáo sư Sài G̣n
ra giảng dạy, ông Viện trưởng mời tôi
cùng dùng bữa tối, chợt ông Mục hỏi ngay
Trưởng pḥng giáo vụ:
-
Các anh
xếp cho NVL mấy tiết?
Viên trưởng pḥng lúng túng:
-
Dạ,
kỳ này nhiều giáo sư cùng dạy nên chưa kịp
xếp giờ cho ông ấy.
Ông Mục bực bội:
-
Tôi
đă trao đổi khá nhiều với ông Viện
trưởng rồi mà! Trong tương lai, LVL sẽ
là người thay tôi. Tuổi chúng tôi đă cao, đi
máy bay hoài biết đâu chẳng có lúc nó rơi? Liều
mạng hoài sao được? Tháng sau mà chưa xếp
giờ cho NVL th́ chúng tôi không ra nữa đâu!
“Chúng tôi” là Nguyễn
Văn Trung, Phạm Văn Diêu và Lê Hữu Mục. Vào
thời điểm ấy, họ là những cây đa
cây đề rất cần cho uy tín của Viện.
Thế là tôi nhận thời khóa biểu nhưng
vẫn thả nổi việc hoàn tất hồ sơ,
mặc kệ cho Viện và Bộ giải quyết, tôi
không một lời nhắc khéo. V́ vậy măi đến
11.3.1975 tôi mới chính thức trở thành giáo sư phụ
khảo. Tính ra tôi đă được “ngâm” hồ
sơ gần hai năm ṛng ră. Các môn tôi phụ trách bấy
giờ là Hán Văn, ngữ pháp và môn thứ ba nghe khá bặm
trợn là… Phương pháp viết văn và giảng
văn. Đến thời điểm ấy, môn này
h́nh như chỉ mới dạy ở hai đại học:
Phạm Việt Tuyền dạy ở Đại học
Sài G̣n và tôi dạy ở Đại học Cộng
đồng Duyên Hải Nha Trang. Ông Tuyền có đào tạo
được nhà văn nào không th́ tôi chưa rơ,
nhưng tôi th́ chưa đào tạo được nhà
văn nào, kể cả việc đào tạo cho … chính
tôi! Không rơ ba ông Trung, Diêu, Mục, ông nào đă “ấn”
môn ấy vào tay tôi. C̣n tôi, đúng là một kẻ …
điếc không sợ súng, nhận đại và dạy
đại, hoàn toàn tùy hứng, chưa học giờ
nào trong quá khứ mà cũng không hề “luộc”
được nó từ giáo tŕnh nào!

Giáo
Sư Ngô Văn Lại 吳文赖老师 <photo>
Việt Nam, 2/2009
|