KHAIMINH.ORG

 

CON TRÂU THỨ BA

 
 

 

 

請閱讀吳文赖老師佳作  *  Xin mời đọc một số tác phẩm cuả Giáo Sư Ngô Văn Lại.

 

 

 

 

 

Theo tôi , trong văn học nước ta tính đến nay đã xuất hiện ba con trâu.

 

Con trâu thứ nhất của Trần Tiêu, nhà văn thuộc Tự Lực văn đoàn đồng thời là em ruột của nhà văn lớn Khái Hưng (Trần Khánh Giư). Con trâu ấy xuất hiện vào khoảng thập kỷ thứ tư của thế kỷ XX.

 

Con trâu thứ hai của Nguyễn Văn Bổng (tức Trần Hiếu Minh) đưa tác giả đến bến vinh quang náo nhiệt nhất trong đời cầm bút của mình. Con trâu ấy xuất hiện vào khoảng thập kỷ thứ năm của thế kỷ XX.

 

Cả hai con trâu ấy, tôi chỉ đọc một vài trích đoạn, đến nay chả còn nhớ gì dù chỉ là mang máng mơ hồ.

 

Con trâu thứ ba không dính dáng gì hai con trâu trước. Đối với tôi, con trâu thứ ba này thật dễ nể về nhiều phương diện nhưng lại không làm nên danh giá gì cho tác giả của nó. Nó xuất hiện vào đầu thế kỷ XXI, thuộc thiên niên kỷ thứ ba. Nó “trâu” hơn hẳn hai con kia vì không hề chứa đựng một… nanô mét hay một micrôgam hư cấu nào, cho dù nhân loại ngày nay đang bước vào thời rất ư hồ hởi về công nghệ nanô và còn coi đó là quốc sách hàng đầu của nhiều quốc gia nữa.

 

Bấy giờ là năm 1951, năm bản lề của thế kỷ XX. Cả gia đình sống trong vùng giặc chiếm, riêng tôi đang sống đơn thân ở Ngọc Bích (Tam Kỳ) nay là tỉnh Quảng Nam, và vừa học xong năm thứ hai bậc Trung học.

 

Cuộc kháng chiến 2782 ngày chống Pháp (mà tôi góp phần hô hào kiêm hưởng ứng với tư cách là Đoàn trưởng Nhi đồng cứu quốc của xã mình. Bấy giờ, tôi đã long trọng đặt bút ký tên mình vào Quyết tâm thư gởi cho Chính phủ hồi đầu tháng 12/1946). Cuộc kháng chiến ấy đã cầm chân trình độ học vấn của tôi mãi đến năm lên tuổi mười tám tôi mới có cơ hội hoàn thành chút tri thức còm cõi ấy. Thế nhưng  lại, tôi đã biết sớm lo toan, tự điều chỉnh ổn thỏa cho cuộc sống bản thân. Tôi thẳng thắng nhận ra nền kinh tế của gia đình lẫn của bản thân đang mấp mé nguy ngập, nếu tôi không xoay xở được một khoản thu nhập nào cho ra hồn thì khó lòng trang trãi chuyện cơm áo cho năm học tới.

 

Tôi bèn quyết định làm một chuyến buôn trâu đường dài. Buôn bò tuy kiếm chác khá hơn nhưng loài ấy ngu xuẩn khó bảo, vả lại tôi đã từng chăn trâu một thời gian, đủ để tự tin là có… kinh nghiệm chuyên môn.

 

Xoay xong vốn liếng một cách chật vật, ngót một tuần sau tôi hăm hở vào cuộc cùng hai người bạn đồng chí hướng nhưng thiếu kinh nghiệm hoàn toàn.

 

Thế là mấy chú trâu quê mùa mộc mạc ở miền nguồn Tiên Phước bị chúng tôi lôi theo xuống Tam Kỳ, giong ra Thăng Bình, ngược lên Quế Sơn rồi xuống Duy Xuyên, vượt qua Đại lộc, về Hòa Vang, Đà Nẵng tiêu thụ. Như thế có nghĩa là cả trâu lẫn người phải dốc sức hành hạ nhau, chấp nhận cuộc hành trình dãi dầu mưa to nắng gắt đủ mùi gian khổ, đầy rẫy hiểm nguy để vượt bao sông suối núi đèo, lại còn phải vận dụng tối đa sự khéo léo để lách qua cả đồn bót giặc nữa. Chúng tôi vừa có trách nhiệm thúc ép đàn trâu chấp nhận cuộc hành trình bất đắc dĩ ấy, vừa lo giữ an toàn cho “thương nhân” lẫn “hàng hóa” vừa lo đáp ứng nhu cầu lương thảo cho người và vật.

 

Tính đổ đồng, chúng tôi phải vượt qua mỗi huyện trong vòng một ngày đêm, tức là phải “Ăn tranh thủ, ngủ khẩn trương” theo cách nói dí dỏm của dân gian ngày nay.

 

Cái tạm gọi là “thương đoàn” của chúng tôi gồm ba con người và bốn con trâu. Người thì cả ba đều hằn rõ dấu vết một tình trạng suy dinh dưỡng maratông từ nhiều năm rồi, đã vậy cuộc hành trình buộc người thì phải đi vòng vèo thật xa để tránh chợ búa quán xá cốt bảo vệ hàng, còn trâu thì chỉ vặt đại cành tre, đọt chuối ngẫu nhiên bắt gặp trên lối đi cùng gặm cỏ qua quít khi chúng tôi có nhã ý dừng lại thổi cơm cùng … xử lý chất thải cơ thể. Nếp sống ấy đã làm cho cả người lẫn vật mỗi ngày mỗi tọp thêm. Lạ một điều là suốt cuộc hành trình sinh tử ấy, cả người lẫn vật cứ… khỏe như trâu, không thành viên nào nhức đầu trúng gió hay gặp tai nạn thương tâm, thương tích nào cả (Tôi tin rằng sự may mắn ấy do các ông Ninh Thích ở Trung Quốc cùng Đinh Bộ Lĩnh, Đào Duy Từ ở Việt Nam đã dốc lòng phù hộ độ trì. Các vị chăn trâu trứ danh ấy vốn thông cảm sâu sắc với giới học trò mà!).

 

Trong bốn con trâu nọ, con đực vạm vỡ, sung sức thật thừa thãi, tuổi tác tương đương ba ả cái tơ trong đoàn. Vì vậy nó được tôi bầu làm con trâu thứ ba của văn học nước nhà.

 

Tôi đảm nhiệm quản lý gã trâu đực chẳng phải do phân công ngẫu nhiên mà chính là do hai ông bạn trong thương đoàn hơi ngán gã, lại hơi tín nhiệm tôi vì họ chưa có kinh nghiệm chăn trâu đực trong khi tôi thì đáng được nhận “bằng đỏ” về trình độ chăn dắt loài  trâu ấy.

 

Bốn năm về trước, tôi đã từng chăn một gã trâu hung hãn nhất làng, kéo cày giỏi nhất làng, và điều hay ho nhất là gã thuộc loại trâu sợ roi nhất làng vì có bộ da đen mịn vô cùng nhạy cảm. Tôi đặt tên cho nó là con Lãnh vì da rất giống thứ lụa các bà các cô thường sắm may quần áo.

 

Cuộc tiêu thổ kháng chiến cộng với hạn hán miền Trung một thời gian khá dài đã làm cho đất đai ruộng đồng trở nên cứng queo, thêm vào đó, cổ máy chiến tranh đã ngốn hết thành phần trẻ khỏe đi cứu quốc cùng phản quốc, chẳng còn đủ nhân lực để cuốc ruộng, đập đất cùng đạp xe nước như xưa. Trong tình trạng ấy, chỉ có trâu đực mới giúp nổi nhà nông – phần lớn là ông già, bà lão cùng đám trẻ vị thành niên – yên tâm theo nghiệp cũ. Vì lẽ đó, xóm tôi chỉ hơn mươi hộ mà nuôi đến ba con trâu đực cổ to như cuộn thảm len, chỉ lúc kéo cày thì chúng tỏ ra tận tụy ngoan ngoãn, còn vừa tháo ách ra là tìm dịp lăn xả vào nhau. Chỉ cần chỗ khúc đường quanh giữa xóm có tiếng chân thình thịch là gã nào cũng bứt sẹo, vất người cưỡi vào bụi rậm bên lối đi rồi xồng xộc đâm bổ vào nhau tiến hành cuộc tử chiến. Kẻ bại trận thường bỏ chạy vài ba cây số, các nông dân hai bên đường luôn phải bỏ việc, liều mạng xông vào can thiệp nhiều đợt mới cách ly được hai đấu sĩ. Mỗi bận như thế, tôi chạy theo sau chúng lên bờ xuống ruộng đến đuối lã. Chuyện như vậy xảy ra có hàng chục lần, thành thử lần này hai người bạn “tín nhiệm” với… số phiếu đa số tuyệt đối, tôi vô phương khiêm tốn khước từ.

 

Hồi tôi “cai trị” gã trâu cày ấy, cứ mỗi lần thợ cày cần tra ách cho nó là tôi phải đích thân thực hiện công đoạn ấy vì các thợ cày ngày ấy đều ngán đôi mắt vằn đỏ và hơi thở khì khịt không bình thường của nó mỗi khi có kẻ lạ đến gần. Con trâu ấy về sau bị bố tôi bán cho lò mổ vì ngoài cái tội hay gây chiến bừa bãi còn vì cái tội tôi hay tổ chức trò “đua trâu” quá ư nguy hiểm, nhất là kỵ sĩ mới 14 tuổi.

 

Nhận sự tín nhiệm của hai gã bạn, tôi ngờ ngợ rằng chính hồn vía con trâu của bốn năm về trước đã tìm lối báo oán tôi bằng cách… quàng thứ “ách” trách nhiệm nặng nề như thế vào cổ tôi cho dúng tinh thần có vay có trả.

 

Đi đến ngày thứ bảy thì chúng tôi bị cơn lũ vây hãm ở vùng núi Phường Rạch. Đèo Phường Rạch là ranh giới tự nhiên giữa hai huyện Quế Sơn và Duy Xuyên. Dân chúng hai huyện nọ đã “bán cái” con đèo này cho đám dân sinh nhai về củi than cùng giới săn bắn thủ công, chỉ dùng lưới, gậy và sức dục sạo của năm bảy chú chó nhép. Còn giới thương gia từ thượng vàng đến hạ cám, cho đến mọi trò cưới hỏi, thăm viếng, vay nợ, đòi nợ, v.v… đều nhất nhất xuôi ngược dòng Thu Bồn, do đó dãy Phường Rạch thật hoang vu, vắng vẻ khiến cho nơi đây hình thành một đảng cướp nổi danh từ thời Tự Đức không kém truông nhà Hồ ở Thừa Thiên, truông Mây ở Bình Định hay truông Hưng Phú ở Tam Kỳ.

 

Có lẽ chúng tôi là những đứa “điếc không sợ súng” cứ nghĩ đường nào cũng là đường, đèo nào cũng là đèo, mà chúng tôi thì vừa mới vượt xong đèo Le hôm trước mà cả trâu lẫn người chưa ai phải … le lưỡi thở dốc vì sá gì món đèo Phường Rạch? Ngạo mạn và chủ quan đến thế thì chúng tôi   lâm vào cảnh ngộ bị nước lũ vây hãm ở đèo Phường Rạch kể cũng đáng đời.

 

Chúng tôi đang “đóng quân” trong một cái lán xơ xác lâu ngày của thợ rừng bỏ lại, nhưng nơi đây có sẵn bếp nước hẳn hoi. Nước lũ đã vây đến bốn ngày, trâu không có gì để gặm vì ngay cỏ ở bờ khe cũng lặn sâu đến vài thước nước. Chúng tôi phải noi gương người vợ của Đinh Tiền Khê (nhân vật trong Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh) là … dỡ mái nhà cho trâu ăn! Gương của người ta là dỡ nhà cho ngựa đỡ một đêm đói, chúng tôi noi gương quá ẩu tả nên sau bốn ngày, cả một mái tranh đã trống hoác, phải tìm cành lá về tấp lên.

 

Làm thứ công việc nhỏ nhặt ấy, chúng tôi phải quay ngược thời gian về lại thời đồ đá của nhân loại, tức là phải tìm những hòn đá có cạnh sắc, đem chọi mãi vào gốc cây cho long hết vỏ rồi hè nhau vật xuống, day quanh mọi phía mới có được những cành lá đạt yêu cầu. Tuy có vất vả nhưng cũng… thông đồng bén giọt, mái nhà cũng hơi kin kín, tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ che mưa che nắng tạm thời cho cái thương đoàn lạc loài thảm hại chúng tôi.

 

<Tiếp #1>

 

Sáng hôm ấy, tuy cũng vẫn xơi cơm với muối như mọi bữa nhưng vị đắng hẳn đi vì cái tin dữ của gã cấp dưỡng. Cứ mỗi lúc dừng chân, thì hai đứa lo chăm sóc cho trâu kiếm ăn, tắm táp, gã xung phong đặc trách bếp núc, chỉ đòi hỏi hai đứa tôi phải đảm bảo khâu vơ củi, xách nước, rửa ráy vật dụng.

 

Nghe gã báo tin hết gạo, tôi xẳng giọng:

 

-         Sao không báo sớm? Nhè đúng vào lúc tao đang ể ể muốn sốt (nói láo mà!).

 

Gã cấp dưỡng chống chế:

 

-         Cả bọn đều là học trò Trung học, lẽ nào không làm nổi một bài toán hết gạo? Tao không báo sớm vì nghĩ rằng nước sẽ nới vòng vây, tệ ra hôm nay tụi mình cũng đã về tới Đại Lộc, làm một chầu đổ quán xiêu đình rồi chớ! Có ai mà dè …

 

Nước lũ đã làm cho suối lẫn hẻm núi đều biến thành sông, tuy chỉ rộng hơn mươi mét nhưng lại chảy rất xiết. Quay lại Trung Phước mua gạo cùng chút ít thực phẩm, tôi phải khứ hồi đến sáu chỗ như vậy. Trong bữa ăn, tôi than sắp ốm không nhằm mục đích tránh né nhiệm vụ vì chuyện bơi lội là “cái phúc” (đẻ con hay lội) mà tôi phải hưởng từ hồi lên năm (ông bố tôi tập bơi cho con bằng cách ném đại tôi ra xa, tôi hoảng quá nhắm nghiền mắt quẫy đạp loạn xạ mấy cái rồi vội chuyển sang “lặn” khiến ông cuống cuồng phi ra xểnh tôi vào, rốt cuộc ông còn sặc nước nhiều hơn tôi, vừa ho vừa ọe cả lúc lâu!). Tôi than thở chuyện ể mình chỉ cốt cho hai ông bạn quý biết ơn tôi nhiều hơn, toàn tâm toàn ý để tự nguyện rửa chén, rửa nồi, không so bì đùn đẩy nữa.

 

Hai gã kia thừa biết thế nào là nước lũ ở chốn khỉ ho cò gáy này nên tự giác nhường thêm cơm cho tôi sạc đủ năng lượng đủ sức chống chọi với tê cóng.

 

Vào thời điểm ấy, cả dãy núi Phường Rạch chỉ vỏn vẹn có hai vợ chồng nhà cọp, tôi tin là lực lượng mỏng như vậy nhất định chúng không thể nào phân công nhau đón đường gây sự với tôi được, nên ăn sáng xong, tôi tức tốc lên đường, bất chấp vợ chồng nhà cọp đã lo về hang ngủ nghê hay đang còn lảng vảng đâu đó đón tôi. Đến được chợ thì đã vào khoảng mười giờ. Tôi tấp ngay vào quán mì Quảng đánh một tô theo chỉ thị của hai ông bạn đang hưởng khô ráo, chuyện vãn ở nhà, rồi đánh tiếp một tô khác theo… sáng kiến tuyệt vời của riêng tôi.

 

Hết lạnh. Rất hết đói do bì bõm gây ra. Chỉ còn việc đi tìm hàng gạo. Té ra chỉ vắng mặt chúng tôi có mấy ngày mà gạo đã  lên giá tàn bạo, nuốt béng khoản tiền dành cho việc mua thịt. Tôi vơ tạm một cân rưỡi cá khô rồi lặp lại cuộc hành trình ngược chiều. Lần này tôi cố đi cho nhanh vì vừa có thêm mấy cơn mưa mới, bổ sung nước cho lũ.

 

Đến “sông” thứ ba thì tôi chững lại. Nước lũ chỉ dềnh lên vài ba thước, không đủ sức hăm dọa tôi nhưng tôi cảm thấy rờn rợn vì một lẽ khác.

 

Sáng nay, trước khi lên đường, đã có một cuộc cãi cọ nho nhỏ giữa chúng tôi. Gã thủ quỹ duyệt chi khá sộp để tôi mua một ít thịt về xơi gỡ gạc lại mấy ngày dài toàn mắm muối và canh rau rừng vừa qua. Gã kia phản bác triệt để và đề nghị khi nào hoàn thành nhiệm vụ sẽ liên hoan xứng đáng. Tôi vận dụng đạo trung dung:

 

-         Không chắc là đã hết đâu. Mà cũng không chắc tao “đi đến nơi về đến chốn” trót lọt được. Một mình tao dẫm nước biết đâu chẳng có điều gì bất trắc xảy ra? Phải giữ tiền lại phòng khi nước có lôi tao đi chơi tận Cửa Đại thì tụi bay còn đủ tiền mua gạo chớ! Cả hai gã buồn bã nạt tôi nói nhảm nhưng sắc mặt họ bộc lộ quá rõ nỗi lo ngại nhưng cuối cùng đành cam tâm chấp nhận cho tôi thực hiện nhiệm vụ chẳng đặng đừng. Họ tỏ lòng tha thiết tiễn tôi ra đi với tất cả tâm trạng Thái tử Đan nước Yên tiễn Kinh Kha qua sông Dịch lạnh lẽo để tìm giết Tần Thủy Hoàng. Tôi có chút đỡ khổ hơn cái ông họ Kinh nọ vì chỉ đi mua gạo chứ không tìm cách ám sát anh vua to đùng ấy của lịch sử Trung Quốc cổ đại.

 

Nước khe dềnh lên kiểu ấy, không khéo cái lời “vận vào khó nghe” hồi sáng đã tỏ ra linh nghiệm chăng? Rồi hai gã bạn quí của tôi sẽ dựa vào đấy để cho rằng “số trời đã định” như vậy nên chi mới khiến tôi có đôi lời trối trăn cẩn thận đến thế!

 

“Không được”! Tôi bảo thầm với mình như vậy. Tôi mà chết là hỏng bét cả đống! Không khéo hai ông bạn mắc mưu kẻ xấu xui khôn xui dại, bán tống bán tháo mấy con trâu ấy để đi tìm xác tôi cũng nên! Nhất định là phải sống mới được! Tôi vẹt mấy cây dại ven bờ đi ngược dòng suối một đoạn vì thấy ở phía trên, khoảng cách hai bờ trông có vẻ hẹp hơn, nước lại chảy lờ đờ yên ổn nữa.

 

Đến gần, tôi nhận ra mình đã bị thị giác đánh lừa tệ hại. Nước không hề chảy lờ đờ mà còn xoắn xoắn như… thủy thần xe chỉ, chẳng biết để dệt thứ gì! Có một túm lá tre không hiểu vì sao chỉ trôi xuôi một quãng rồi quanh quẩn vật vờ khiến tôi nhìn nhầm. Bờ suối dốc đứng hẳn lên, cao cỡ hai đầu người. Tôi nắm chặt túi gạo, thu hết quyết tâm:

 

-         Tòm!

 

Tay phải tôi định dang ra để hảm bớt đà rơi. Vừa tiếp nước  cánh tay ấy sẽ sẵn sàng quạt lẹ để bảo vệ túi gạo và thực phẩm linh tinh do tay trái ấn chặt trên đầu.

 

Tôi phát hiện sự cố quá trể. Túm lá tre trôi vật vờ mà tôi tưởng vô hại kia lại chính là phần ngọn của một lùm tre bị xói lở từ thượng lưu và nước lũ đã hung bạo lôi chúng theo. Hai tre cắm đầy vào người tôi vạch nên vô số cào xước ngang dọc, máu me bê bết. Bọc gạo lại đè đầu tôi ngột trong nước trở nên nặng đột xuất. Lúc nãy, khi tính toán cú nhảy, tôi quên đứt việc tính đến phần trọng lượng của túi lương thực ấy bổng dưng sinh sự. Nhảm thật! Chỉ sót có một phép cộng nhỏ mà hỏng bét cả bài toán lội khe! (Tôi chua xót nhận ra rằng các thầy dạy toán cho tôi cả gan xếp tôi vào hạng giỏi toán, thậm chí năm trước đấy còn chọn tôi đi thi giỏi toán ở Cẩm Khê là cả một sự nhầm lẫn cực kỳ tai hại! Hình như là các thầy ấy… có hơi dở toán nên mới không nhận ra tôi dốt toán cao độ, thiếu chút nữa là chết ngộp trong nước lũ Phường Rạch!).

 

Tôi ngoi lên thật nhanh nhờ lúc ngã tay phải của tôi dang ra nên giữ được thân hình không bị lùm gai nuốt chửng. Tôi khổ sở lê tấm thân thảm não, ì ạch leo lên bò, rét run lẩy bẩy. Tôi chỉ nhổ qua loa mấy chiếc gai cắm vào nách bên phải cho đỡ xót. Các gai ở vị trí khác đành phải giữ lại cho đỡ hao máu, về đến lán sẽ tính sau.

 

Tôi bước theo điệu cà nhắc nhưng vẫn phải rảo chân tối đa để chóng về đến lán cùng hai người bạn tìm ngay lá rừng rịt cho cầm máu và đỡ bị cơn nhức nhối tra tấn. Vài thứ lá rừng vốn rất công hiệu cho việc này, cứ nhai kỹ với muối, đắp vào là cảm thấy dịu mát ngay, khỏi lo bị nhiễm trùng, da thịt cũng đỡ bị xói lở, lưu lại sẹo đỏ, sẹo trắng.

 

<Tiếp #2>

 

Ba “con sông” còn lại, tôi lội một đoạn ngắn tới nách rồi mới bơi nên khỏi xảy sự cố nào đáng tiếc. Chẳng những thế, nước lũ ở đây còn rút hộ tôi khá nhiều gai và còn trám bít một số vết thương cào xước nữa.

 

Tôi mang bộ mặt nham nhở máu me trông chẳng giống ai ấy lầm lũi bước vào lán. Chết hụt như vậy mà chỉ xuýt xoa rên rỉ vặt vãnh thì nhục quá, tôi đành cắn răng làm người hùng cho xong. Lửa bếp được cấp tốc nhóm lên để hơ mọi thứ. Với cá khô, hơi ráo nước là chúng tôi nướng lên giải quyết luôn tại trận. Lửa làm những vệt máu khô nhanh và vết cào đỡ xót. Các bạn tôi xúm vào săn sóc rồi hỏi han cơ sự. Tôi bông lơn:

 

-         Tao trượt chân rơi vào một tổ hổ con. Cha mẹ chúng đi vắng. Có đến ba con hổ nhãi nhép vồ lấy gói cá khô, tao xót của giật lại bị chúng lên cơn cáu giận xúm cào ráo riết… Tao phóng kịp lên dốc rồi chạy đại về tận đây.

 

Gã thủ quỹ cười cười:

 

-         Tao biết chỗ tổ hổ ấy rồi. Bố mẹ nó làm tổ trên ngọn tre chớ gì! Gai tre đây nè!

 

Y giơ cái gai tre khua qua khua lại trước tầm mắt tôi. Thì ra nước lũ ba con khe cuối cùng vẫn không nhổ hết gai trên người tôi hay chúng cố tình chơi xỏ chừa lại một vài chiếc cho gã thủ quỹ này trêu tôi đây nhỉ?

 

Hôm sau nước lũ đã trả lại đường sá cho chúng tôi. Thật là đáng mừng nhưng cũng thật đáng phẫn nộ. Hóa ra ngày hôm trước tôi tự hành xác mình lảng nhách! Nhịn đói một ngày là xong ngay, việc gì phải bêu thân ra chuốc bao nhiêu là sợ hãi, là cô đơn khi phải vượt chừng đó đồi suối hiểm ác của dãy Phường Rạch?

 

Nắng lên rất gắt, có vẻ thiên nhiên chạnh lòng có nhã ý bù lại cho mấy ngày mưa lũ vừa qua đã hành hạ tận mạng cái thương đoàn ọp ẹp của chúng tôi. Đoàn người và trâu đã di chuyển đến chân đèo. Tôi đã có lần  men theo hông đèo này bằng thuyền. Thời chiến tranh, thuyền phải đi ban đêm để đỡ bị máy bay địch “xơi tái” lảng nhách, thế nhưng nơi đây cũng như với quãng Tí, Sé chỗ qua Hòn Kẻm thì được coi là ngoại lệ, người ta có thể ung dung đi đò dọc vào cả ban ngày, tha hồ ngắm trời xanh mây trắng. Máy bay nào liều lĩnh bổ nhào bắn bậy là chính hắn tàn đời!

 

Dòng Thu Bồn đã khoét sâu vào hông đèo phơi ra màu đất ba dan đỏ như son có lẽ nhờ hơi nước sông phả vào đều đặn nhờ trái hướng nung đốt của mặt trời nên màu son ấy thắm đậm dần lên. Ngồi thuyền đi dưới sông nhìn lên con đèo cao vòi vọi ấy, người đi đò không tài nào phân biệt nổi những chấm đen chao liệng sập sè trên ấy là loài chim nào. Còn đám thợ đốt than hay đám người săn thú họa hoằn qua đèo, kẻ tốt mắt cho mấy ngó xuống sông cũng chỉ nhìn thấy các ngọn bắp, ngọn dâu xanh ngắt bên kia sông và chỉ nghe được tiếng róc rách xa xăm của dòng sông đang len lỏi ẩn khuất ngay phía dưới chân họ.

 

Chúng tôi giong trâu đi cách quãng nhau khá xa. Chân dép lốp xe của thương nhân và chân móng guốc của thương phẩm rón rén men theo bờ vực quanh co xói lở. Chỉ cần trượt chân vài ba tất là xong đời. Nếu muốn lấn về phía núi cho an toàn hơn có lẽ người ta cũng phải mất hàng vạn công lao động. Chúng tôi đành tin vào số phận hơn là tin khả năng và sự cẩn thận của mình.

 

Chúng tôi đi suốt năm giờ liền mà vẫn không hề gặp đồng loại đi ngược chiều hay xuôi chiều. Cảnh vật hoang vắng đơn điệu đến chán ngấy. Ba đứa lại đi quá cách quãng nhau, chỉ gọi nhau í ới chứ chẳng chuyện trò gì được nên cứ việc lầm lũi bước, muốn gọi cũng chẳng tìm đâu ra hơi cùng sức.

 

Trong chuyến về quê năm trước đó, tôi có nghe kể chuyện một anh bộ đội bị thương vì cọp về ở vùng này nên cuộc di chuyển nhọc nhằn của “thương đoàn” chúng tôi hôm ấy cũng có phần thấp thỏm đôi chút, cũng tạm coi là có gia vị đáng kể chứ không đến nỗi hoàn toàn nhạt nhẽo đơn điệu.

 

Bên phải là san sát các loại cây dại rậm rì, bên trái là vực sông Thu Bồn trống hoác nên chúng tôi có cảm giác chỉ cần một tiếng động lớn bất thình lình cũng thừa sức làm sạt lở mép đường hất chúng tôi văng bắn xuống sông. Cảm giác ấy buộc mỗi đứa chúng tôi phải chọn thế đứng tấn cho quả tim mình. Nó phải trân ra, gồng lên chứ không được phép thấp thỏm, hồi hộp, dở trò đánh trống ngày hội một cách bừa bãi.

 

Đang mãi mê trong tâm trạng căng thẳng như dây đàn, bất chợt tôi nghe chỗ khúc quanh phía trước vọng lại tiếng rên thê thảm đến lạc giọng:

 

-         Úi cha mẹ trời đất quỉ thần ơi! Làm sao đây hở trời?

 

Đúng là giọng rên của gã đi tiên phong. Chỗ gã dừng lại, cách tôi hơn vài trăm mét. Chúng tôi tránh đi dồn cục để tiện tản ra thật nhanh khi nghe tiếng máy bay giặc ù ù ì ì từ xa. Cứ mỗi lần báo động như vậy, vai trò đi đoạn hậu của tôi phải chịu thiệt ba bốn trăm mét để chạy lui bán mạng, rồi khi có tiếng kẻng báo yên lại phải dốc sức đuổi cho kịp đoàn (có lẽ tôi và lão trâu thứ ba phải chạy khùng khùng như vậy cộng dồn cả chuyến cũng đạt ngót chục cây số!)

 

Qua khỏi khúc quanh cùi chõ, tôi thấy gã tiên phong đứng trơ như hạc gỗ nhìn trân trân vào khối đá màu gan gà lỗ chỗ những hốc nho nhỏ nhét lọt quả trứng hoặc củ khoai. Những hốc nhỏ ấy là công sức của mưa gió nghìn đời để lại. Nắng hè làm mặt đá long lanh như đẫm nước. Một bên tảng đá mất hút vào sườn núi nghiêng chênh chếch, bên kia nhô ra chênh vênh phía trên sông Thu Bồn, cách mặt sông có lẽ hơn mươi mét. Phía trước phiến đá là vực thẳm do nước mưa trườn mãi bao đời,kiên nhẫn bóc dần bờ sông có lẽ bắt đầu từ thời… bà Âu Cơ còn chưa đẻ trứng cũng nên.

 

Để tiếp tục cuộc hành trình khổ ải, chúng tôi buộc phải đưa trâu đến phía trái phiến đá tai ác nọ rồi lập tức ngoặt nhanh sang phải, hướng trâu vào phía núi, động tác phải giữ cho thật chuẩn mới hòng khỏi ngã lộn cổ xuống vực sâu. Để cho trâu hợp tác tốt, chúng tôi phải mạo hiểm trực tiếp nắm chặt hai mũi nhọn hoắt của sừng trâu lôi cật lực, kết hợp với đẩy thật gắt mông trâu, “Hò dô ta hè!” nhiều đợt mới đè bẹp được sức ỳ bướng bỉnh của con vật.

 

Nắng đã tăng nhiệt tối đa nhưng chúng tôi chưa tập trung đủ dũng khí để vào việc. Đành phải ngồi phơi mình giữa nắng gắt, chờ cho gã tiên phong nọ hồi phục khí lực cùng tinh thần. Tôi tản thần đã hơn phân nửa nhưng cố giả bộ làm gan để hai bạn mình đỡ ngã lòng.

 

Màu bắp, màu dâu phía bên kia sông Thu Bồn xanh ngút ngàn làm tâm hồn chúng tôi dịu dần lại rồi một đám mây trắng bềnh bồng trôi đến ngăn bớt ánh nắng chói chang. Thì ra “phù vân” thứ thiệt cũng hay ho chán vạn chứ không đáng để giới sĩ phu bao đời khinh chê quá đáng như trong nghĩa bóng của từ ngữ ấy.

 

Những nông dân Đại Lộc lúi húi người nào việc nấy phía tả ngạn sông Thu Bồn trông như những con rối tí tẹo đang chịu sự điều khiển của một nghệ nhân vô hình nào đó đang ngủ lơ mơ, hành động theo quán tính.

 

 

Tôi bông lơn một câu cho tan bớt không khí nặng nề:

 

-         Nghĩ đủ rồi nghe! Đứa nào thèm thịt trâu? Đứng lên ngay!

 

Vừa nói tôi vừa tỏ rõ quyết tâm. Hai gã bạn tức thì chia nhau nắm hai sừng ả trâu cái nhút nhát. Tôi bặm môi đẩy mạnh phía sau. Công việc khá nhọc nhưng chúng tôi có đủ sức chịu đựng. Hơn một giờ sau, hai ả trâu cái đã được cột vào các cây dại phía đầu dốc. Riêng ả trâu cái thứ ba thiếu chút nữa đã “gạch tên” tôi ở thế giới bên này. Nguyên hai bạn tôi đã lôi sai nhịp sao đó khiến ả nổi đóa lắc mạnh, cả hai vuột tay cùng một lúc, ả lộp cộp bước lùi làm bật một chân bám trụ của tôi phải khua khoắng lơ lửng ngoài khoảng không, may sao năm ngón chân kia lọt vào một hốc đá nhỏ nên còn duy trì được trọng tâm của cơ thể. Tôi níu kịp đuôi trâu gào thất thanh “Dô ta” Hai gã bạn bất giác gào theo, chộp đại hai sừng ả lôi xềnh xệch lên dốc.

 

Ngày nay nhớ lại quang cảnh ấy, tôi không sao lý giải được một điều: Tôi “dô ta” vào mông ả trâu cái, sóng âm bị cản sờ sờ, ả làm sao nghe được mà rùng mình nhè nhẹ? Và hai bạn tôi làm sao nghe được mà hưởng ứng kịp thời? Liệu có phải khi chạm tới lằn ranh sinh tử, da trâu cũng bất chợt có khả năng truyền âm?

 

Cột xong ả vào bụi cây dại, cả ba chúng tôi ngồi phịch cạnh chân ả, thi nhau thở. Miệng đắng nghét như kẻ ốm. Cùng một lúc, chúng tôi thở bằng mũi, bằng mồm và cả bằng tai, bằng mắt nữa cũng nên. Có lẽ đó là cơn mệt vĩ đại nhất của trọn cả đời tôi.

 

Tôi cố đứng lên trước, vận dụng toàn bộ “cái oai” của bao nhiêu năm cầm quyền trưởng lớp, đoàn trưởng thiếu nhi, liên đội trưởng khối lớp, phó bí thư Đoàn thanh niên cứu quốc nhà trường, tóm lại là tôi vét sạch uy quyền để lãnh đạo bằng được hai gã đoàn viên mà lúc này chớm có dấu hiệu lơ là trách nhiệm, nhụt chí, mất tinh thần. Tôi phải buột họ ý thức đầy đủ vai trò sắp đến là đưa bằng được “chú trâu thứ ba” của văn học nước nhà vượt qua tảng đá trời gầm này. Tôi cố lấy lại giọng rắn rỏi:

 

-         Đây là giây phút quyết liệt nhất. Nếu hỏng cuộc, ta chỉ còn một “hạ sách” duy nhất là phải để một đứa ở lại với gã trâu đực, dắt gã đi ngược ít ra một vài ngày đường để vào lại Thăng Bình mới mong tìm nổi lò mổ, thuê người xẻ thịt rồi đích thân bán tháo bán đổ may ra còn vớt được phân nửa vốn mua. Còn như để xảy ra chuyện bết bát như lúc nãy là toi đời cả vốn lẫn người…

 

Hai gã đồng hành tội nghiệp lấm lét nhìn trộm tôi rồi ngó nhau có vẻ hối hận về cú vuột tay lúc nãy. Họ phải cân nhắc tình hình quá ư khó khăn nếu phải để một kẻ ở lại. Giả thuyết đầy bi quan của tôi vừa nêu làm cho họ ớn quá. Họ thừa biết rằng nếu cần, tôi chắc sẽ cam tâm tình nguyện dễ dàng nhưng cả mươi ngày nay họ quen làm việc theo ý đầu lĩnh, nếu xảy ra chuyện xé lẻ, nhất định là chỉ “quằn quại” tại chỗ e còn chưa chắc đã xong, nói gì việc đi tiếp?

 

Cả hai có vẻ ngấm lời động viên chém đinh chặt sắt của tôi, long trọng hứa sẽ cùng tôi cố gắng hết mình, đến chết mới thôi. Tôi thật cảm kích, thầm mừng là lời lẽ mình té ra cũng… có lửa. (“Đến chết mới thôi”, ngẫu nhiên họ đã dùng lời “Tử nhi hậu dĩ” của đại nho gia Giả Nghị đời Hán, mặc dầu ông đại nho gia ấy không chắc là có biết nổi việc buôn trâu, buôn bò gì không?)

 

<Tiếp #3>

 

Ba hoa thiên địa một hồi đầy khí thế, tôi chợt phát hiện ra một khuyết điểm không sao san lấp nổi, đấy là tôi quá coi nhẹ việc ghi tên các con vật vào văn tự mua bán. Một kẻ được kể là kinh nghiệm vững vàng như tôi mà lại quên béng cái chuyện tối yếu khẩn như vậy thì thật lạ. Chẳng qua tôi giới hạn trách nhiệm của mình quá đơn giản là giong các con vật đi từ cổng chuồng của chúng tới lò mổ của người ta, chả cần giao tiếp kết thân, nhớ tên chúng làm gì thêm rách việc? Nếu chúng toi biết gọi tên mỗi con vật một cách âu yếm, rất chắc chắn là chúng tin tưởng, hợp tác, làm nhẹ bớt hơn nửa phần nhọc nhằn quá đỗi của đám thương nhân bầm dập tối đa ấy.

 

Tôi chỉ nghĩ ồn ào trong trí chứ không hề  nói ra thành lời. Dại dột tự làm suy giảm uy tín bản thân vào lúc này là hỏng hết đại sự! Tôi tự mắng thầm cái ngu không quan tâm tên gọi mỗi con trâu của mình đã làm cho cả bọn phải dốc sức, bán mạng thật vô ích lại còn khiến các con vật to xác nọ có cớ để tỏ vẻ khi dể chúng tôi ra mặt. Tôi còn phạm một sai lầm nữa là biết tỏng hai bạn đồng hành rất ư ú ớ về nghiệp vụ, vậy mà tôi buông xuôi thả nổi, không hướng dẫn họ cho tới nơi tới chốn, rốt cuộc suýt phải chuốc nguy vào mình. Tôi hỏi:

 

-         Lúc nãy tao chỉ thấy cái mông trâu, chẳng biết hai ông lôi níu nó ra sao cả.

 

Một gã bông lơn:

 

-         Cái đáng thấy ông thấy một mình là được rôi! Hai đứa tôi không thắc mắc gì đâu! Hỏi han cái khác làm gì!

 

Tôi gắt:

 

-         Nói thiệt nghe coi! Nghiêm túc đó!

 

Gã khác bảo:

 

-         Thì tụi tao cũng tỳ đầu gối làm trụ, ngồi lên gót chân ấy, còn chân kia duỗi thẳng ra trước mặt, mím chặt môi, ngã ngửa người ra nắm sừng “Dô ta hè!” Sao? Đúng sách giáo khoa của mày rồi chớ?

 

Tôi khiển trách nhẹ hều:

 

-         Hà hà… ! Hì hì …! Còn lâu mới đúng sách giáo khoa! Nếu không khắc phục triệt để cách lôi thì gã trâu đực này dám lôi cả đám tụi mình theo gã xuống sông Thu Bồn đấy!

 

Tôi áp dụng lối nói gằn giọng, nhấn thật mạnh những điều cần thiết để nâng cao hiệu quả truyền đạt lẫn tiếp thu (ngày nay nhiều vị cán bộ xài cách ấy y chang! Lẽ nào bí quyết của tôi bị rò rỉ nhỉ?)

 

 

Giọng tôi có bộ dõng dạc thấy rõ:

 

-         Cái cách các ông làm lúc nãy, gặp khi lôi hết đà, các ông chổng vó nằm tênh  hênh trên mặt đá, phần trâu bị lôi hết trớn nó đạp đại lên mấy cánh tay vừa níu nó xong, “rốp” một tiếng là phơi tủy ngay! Hiểu không? Hèn gì các ông không dám lôi hết đà, hở một tí là buông tay, mặc xác cho tôi chịu trận.

 

Hai gã lúng túng nhìn nhau, định nói gì đó nhưng thôi. Tôi đánh bồi:

 

-         Các ông nắm sừng ra sao?

 

Gã lúc nãy lại liến láu:

 

-         Mày khỏi lo. Tao biết mày lãnh phần nặng nên tao cũng dốc sức hết cỡ. Tao nắm ngay chót sừng, hai bàn tay kề sát nhau cho mạnh thế, theo kiểu chơi “Đúc câu dừa, chừa cây nạng” mình chơi hồi nhỏ…

 

Tôi nói mát:

 

-         Tao thì tao nắm cả hai tay làm một chỗ giữa sừng…

 

Gã kia gỡ gạc gượng gạo:

 

-         Ừ, vậy mới thiệt là can đảm…

 

Gã liếc xéo bạn mình ra vẻ đắc ý. Tôi nói tiếp:

 

-         Ông kéo sừng nó vào ngực mình mà dám lôi thì phải nói là ông quá ngon! Đụng đến nút áo ngực là ông bắt buộc phải buông tay để lập lại thế quì chớ gì? Té ra tui sém rơi xuống sông là nhờ kiểu can đảm lạ đời ấy của ông…

 

Gã “dúc cây dừa” được dịp xỏ xiên:

 

-         Trời cao đất dày ơi! Thì ra lúc nãy trăm sự nhờ ông nắm vào chỗ giữa sừng cả đấy sao? Tui cứ tưởng mình cũng chịu nửa phần lỗi cho cái chết hụt của đứa đẩy mông trâu đó chớ !...

 

Tôi lắng giọng:

 

-         Bây giờ phải đổi kiểu nhé! Hai đứa bây kiểm soát lẫn nhau cho kỹ. Không thể đùa với gã trâu đực này được đâu!

 

Điều cần thiết là phải quên ngay cái lối  nắm sừng đầy khuyết điểm của hai đứa. Bây giờ thì đừng có nhìn chằm chằm  vào trâu như lúc nãy  mà nó mất hồn mất vía. Mỗi đứa phải đi xuôi chiều một bên cổ trâu, một tay bịt kỹ mũi sừng, tay kia đặt chỗ gốc sừng. Chính đây mới là “điểm dô ta”. Ai thuận tay trái nên đi bên phải, ai thuận tay phải nên đi bên trái. Chỉ đẩy chỗ gốc sừng mới có thế mạnh, đẩy mũi sừng là nó long óc nổi khùng ngay đấy! Bịt tay chỗ mũi sừng chỉ là việc chiếu lệ cho mình khỏi khiếp thôi. Nhớ đấy!

 

Vừa nói tôi vừa hoa tay thị phạm cho chắc ăn. Một gã bảo bạn:

 

-         Hì hì, thằng này ngó vậy mà khá. Nó học hơn tụi mình là phải. Đúng là thứ chó đớp được ruồi hẳn hoi chớ không phải chó ngáp nhằm ruồi đâu mày hỉ! Cả hai gã rúc rích cười với nhau, tận hưởng lời trêu có chất lượng ấy.

 

Tôi nghĩ thầm:

 

“Cái lối khen mất dạy này quả là trần đời có một!”

 

Nắng lên đã khá cao. Mồ hôi túa ngầm trong mấy tấm áo vải “xi ta”. Mấy cái bi đông không còn một giọt nước nào. Khối đá trời gầm ấy đẩy chúng tôi vào thế phải tự “tịch thu” khá thô bạo nước uống của mình. Không khéo có đứa sắp phải ngất xỉu vì cơ thể mất nước. Chần chờ nữa là chết khô mất. Tôi đứng phắt lên:

 

-         A lê! Hốp là!

 

Khi khổng khi không tôi bổng nhớ tới cách đốc thúc thời xa lắc của giới “cạp rằn” (phiên âm tiếng caporal của Pháp ngữ, chỉ người quản lý lao động ở công trường). Hồi bé đã nhiều lần tôi lon xon chạy sau người lớn coi đám phu lục lộ làm đường, cứ mỗi lần viên cạp rằn quất roi gân bò veo véo trong không khí, lặp đi lặp lại tiếng quát đó thì cu li dù đang ốm thật hay ốm giả cũng đều đứng phắt dậy chăm chỉ lao tác cứ như từ bé đến giờ chưa biết đau ốm là gì!

 

Hai bạn tôi đứng lên quá đổi rập ràng. Kẻ đã luyện tập vài mươi bận cũng chỉ ăn khớp nhau giỏi đến mức ấy.

 

Hai gã vào vị trí đúng theo cách thức tôi đã thị phạm. Tôi cũng lãnh phần đẩy mông vì cả hai cho là tôi đã thạo phần việc ấy. Quả thật là chết xác cho tôi!

        Tôi không đùn đẩy tị nạnh gì vì gẫm ra họ nhận xét đúng. Nếu lúc nãy một trong hai gã ấy lãnh phần đẩy mông không chừng đã làm cho cả bọn ngã lộn cổ xuống sông chỉ vì lúc nguy cấp đã chộp hụt hoặc chộp vào chỗ chẳng vững vàng, không tạo ra công hiệu thích đáng.

        Nhìn gã trâu đực  lực lưỡng tôi hơi chợn. Bộ da đen nhánh ấy vốn rất nhạy cảm. Chỉ một con mòng chích vào là lão rùng rùng chỗ vết thương suốt ngày dù kẻ thù ấy đã bị tôi tiêu diệt từ lâu.

        Cặp sừng to bè của gã làm hai ông bạn tôi quên tiệt những lời tôi vừa dặn chưa lâu. Tôi vỗ vỗ vào gốc sừng gã trâu đực, cấy tiếng động viên:

 

-         Sừng xứng đáng là sừng hả? Nắm “đã” lắm nghe!

 

Hai ông bạn tôi nhe răng cười không đạt mẫu mã tí nào. Tôi tiếp:

 

-         Cứ làm hết mình là trời sẽ giúp. Ngạn ngữ xứ Đờ Gôn đấy (thời điểm đó Đờ Gôn đang làm tổng thống nước Pháp). Tụi mày biết trời giúp cách nào không? Trời giúp bằng cách cho ba ả kia làm trâu cái thành thứ mồi nhử hấp dẫn. Và lão này thèm muốn chết cuộc đoàn tụ với ba ả đang bồn chồn trên đầu dốc kia kìa!

 

Quả thực gã trâu đực đã bén duyên hừng hực từ mấy hôm nay. Tôi nghiêm  trị gã không nhớ đúng số là đã mấy lần rồi.

 

Gã bước lên gộp đá thật đĩnh đạc. Ba đưa tôi giở nguyên mảnh cũ: Hai đứa kia gãi gãi chỗ chân sừng khiến lão vừa ngứa vừa đã ngứa, lim dim mắt có vẻ khen ngầm, tận hưởng phút thư giản quí hóa.

 

Phần tôi cũng mơn trớn, gãi nhẹ chỗ cái rảnh giữa hai đùi sau là vị trí nhạy cảm nhất của gã. Kiểu kích thích đó hơi thô tục nhưng lão trân mình đầy khoái cảm. Nhờ vậy chúng tôi xoay lão về hướng núi khá dễ dàng.

 

Đang gãi như vậy, tôi bảo nhỏ rồi hét to:

 

-         Chuẩn bị nhé! Dô ta hò!

 

Tuy sẵn sàng là vậy nhưng cả người lẫn vật không thể nào giúp nhau rướn lên gộp đá cho nổi. Lại bị trượt dài sát mé vực như trước. Cái lẽ nhân quả tuần hoàn của nhà Phật chẳng hiểu lạc lối ra sao lại nhè ứng nghiệm thẳng cánh vào chúng tôi: đứa kéo lúc nãy giờ bị kéo, đưa đẩy lúc nãy giờ bị đẩy.Tôi chỉ còn bám được mặt đá bằng một bàn chân phải đang mỏi rục. Trong cơn thập tử nhất sinh ấy, tôi kê đại bờ vai phải của mình vào đúng chỗ “chùm khoai” lủng lẳng của gã, tì thái dương mình vào vị trí phản vệ sinh nhất của cơ thể gã. Dốc đá thoai thoải tạo thế cho lão dồn hết trọng tâm  cho tôi! Tiên sư cái thằng cha “trọng lực” ác tận mạng! Tai tôi ù lên, mắt tóe sao xẹt xẹt qua lại. Chẳng rõ cái ông thần Atlas ngày xưa tẩm bổ nhằm thứ gì mà cõng quả địa cầu ngon ơ? Phải chi tôi mượn được một phần tỉ tỉ thứ sức mạnh ấy để vác gã trâu đực này nhảy phăng qua gộp đá ném đại gã về phía đầu dốc, nơi ba ả cái tơ mỹ miều đang đón chờ!

 

Kể ra tôi cũng tàn ác tới bến! Cái bờ vai của tôi chơi một đòn quá hiểm. Gã trâu đực cố đưa một chân trước lên khua khua, gõ lộp cộp vào phiến đá gan gà ấy rồi thụt phắt lại ngay, hình như gã hết tự tin vào sức rướn lên của mình mà cũng không  tin tưởng gì khả năng chịu đựng của mặt đá nóng bỏng.

 

Đúng lúc ấy, hai chân sau của gã lộp cộp dạng dần ra hai bên, cái đuôi chổng đại lên. Tôi hiểu ngay ý đồ của gã, bụng rủa thầm: “Đồ khốn kiếp! Mày dám giở trò trả thù mấy đêm bị tao phá đám tình yêu của mày với mấy ả trâu cái như thế này đây sao?” Tôi chộp ngay cái đuôi gã níu ngược lại thành hình chữ C rồi nhét cật lực vào chỗ bờ vai tôi kê chỗ “chùm khoai” của gã. Thế là gã chịu phép, lộp cộp khép dần hai chân sau lại như cũ. Cái chữ C tôi uốn đuôi gã đã chận đứng được “chữ C” mà ruột già của gã âm mưu tống tháo vào thái dương khốn khổ của tôi! “Thật là tội nợ! Có thế chứ!” Tôi rên thầm một mình rồi vét hết hơi sức đang đuối lả quát tướng vào mông gã:

 

-         Cố lên! Dô…ô…ô ta!

 

Bờ vai và cả thái dương tôi cùng vận sức tối đa, “chùm khoai” của gã bị tôi tì ngược lên phía bụng. Cổ tôi, đầu tôi trở nên khỏe thần kỳ, suy ra có lẽ nhờ mấy lần đứng tấn trân mình, lên gân trong những lúc bố tôi truyền mấy bài quyền cước “Lão mai”, “Ngọc trản” hồi tôi lên sáu, bảy tuổi. Ngày nay, nếu ai cảm thấy tôi là đồ “cứng đầu, cứng cổ” thì chủ yếu là tại cái mớ “Lão mai”, “Ngọc trản” và nhất là tại cái “hậu phương” bề thế của gã trâu đực nọ luyện cho.

 

Cái bờ vai lợi hại của tôi cộng với sự góp sức của cái thái dương khốn khổ cùng phát huy khả năng tột độ làm gã cuống lên, cuốc loạn xạ hai chân trước tìm bừa được chỗ bấu víu rồi rướn tấm thân đồ sộ lên, tôi lập tức dấn theo buộc gã không thể không cuốc nốt hai chân sau rồi bước luôn những bước còn lại. Chúng tôi thở phào hú vía!

 

Đẩy hai tấm sừng to gộc của gã buộc gã phải leo bằng được lên dốc đá, hai bạn tôi thật đáng thưởng “anh dũng bội tinh”. Suốt cuộc hành trình, họ đâu có đụng độ nhiều đến gã, dễ gì giữ được sự dạn dĩ? Tôi chắc rằng giờ này ở thế giới bên kia, có lẽ cả hai vẫn chưa thể nào quên nổi những gì họ đã làm cùng tôi trong cuộc hành trình ác liệt giữa cái 1951 hoạn nạn lu bù ấy.

 

(Đến tuổi “cổ lai hi” ngày nay tôi mới nhận ra sự tồn tại của mình là cả một điều vô lý của Tạo hóa! Lẽ ra cái trò hiểm ác mà tôi gây ra cho “chùm khoai của con trâu thứ ba nọ, thừa sức làm cho gã mắc trơn ngược, tứ chi bủn rủn lôi chúng tôi chuồi tuốt xuống sông Thu Bồn như chơi!)

 

Cột xong gã cùng ba ả cái tơ kia, bộ dạng gã bổng trở nên lành như đất thó, chẳng bù với mọi lần khác, cứ hễ xớ rớ gần ả nào là lão bồn chồn rậm rật khó cưỡng nổi bản năng.

 

Nhận ra vẻ tội nghiệp đột xuất ấy của gã, tôi gượng hơi sức thều thào gọi hai bạn mình cùng  quan sát cho vui nhưng cả hai đã ngồi đờ người, hai tay chống ngược về phía sau, đôi chân buông song song lên mấy bụi cây dại, mặt mũi bệch bạc, thở chẳng ra hơi. Lúc này chúng tôi toàn thở bằng tai, mồm mũi suy nhược thấy rõ.

 

Phía trước chúng tôi còn phải ngược dốc một quãng khá dài nữa mới đến được đỉnh đèo Phường Rạch để “Dừng chân đứng lại: trời, non, nước” như một bà Huyện nổi tiếng thời Minh Mệnh với cái đèo Ngang của bà. Bà chỉ giỏi làm thơ vậy thôi chứ đi bộ nhất định bà thua

 

<Tiếp #4>

 

Phía trước chúng tôi còn phải ngược dốc một quãng khá dài nữa mới đến được đỉnh đèo Phường Rạch để “Dừng chân đứng lại: trời, non, nước” như một bà Huyện nổi tiếng thời Minh Mệnh với cái đèo Ngang của bà. Bà chỉ giỏi làm thơ vậy thôi chứ đi bộ nhất định bà thua tôi xa chừng, còn cái chuyện đưa trâu qua núi qua sông thì nhất định là bà ấy chả được tích sự gì. Vả lại cái đèo Ngang của bà thì từng có cả triệu người qua lại vô số lần, đâu có thưa vắng dấu chân như đèo Phường Rạch? Đáng lẽ tôi mới là kẻ cần làm thơ qua đèo, thế nhưng tôi lỡ sinh sau bà hơn hai trăm năm lại còn thua xa bà cái vụ dạy dỗ. Bà chuyên dạy đám cung phi, tức toàn những nữ giới xinh đẹp thật tàn bạo, còn tôi chỉ dạy đám nữ giới của nhân gian, chỉ đẹp cỡ… một vừa hai phải thế thôi. Với tầm cỡ chênh lệch như vậy, tôi mà sớn sác làm bài thơ “Qua đèo Phường Rạch” có lẽ ngay đến tôi cũng không chắc gì ngửi nổi!

 

Chúng tôi cả người và vật đều khát khô cổ lẫn mồm miệng. Khát đến nổi “sùi bọt xà phòng” ra mọi khóe mép. Rảo mắt tìm riết đám cây dại chung quanh, may sao chúng tôi phát hiện được một số lá non có thể cứu nguy như móc, trâm, nổ, là những thứ lá nhai nát ra có vị chua chua chát chát thơm thơm dìu dịu đủ sức kích thích các hạch nước bọt tái hoạt động tích cực. Chúng tôi nhanh tay bẻ mấy mớ lá non ấy tọng vào mồm “hàng hóa” lẫn chủ hàng. Quả nhiên hiệu nghiệm thấy ngay chỉ sau vài giây.

 

Sức khỏe chẳng rõ đi lạc những đâu mà tìm về thật chậm trong lúc ánh nắng hè lại trút xuống thật nhanh. Ngồi nghỉ cách phiến đá cả sải tay, chúng tôi vẫn còn cảm thấy hầm hập như sắp héo cả người. Mặt trời chuyển dần sang xế chiều nên thỉnh thoảng cũng có vài ngọn gió nồm hây hẩy giúp chúng tôi hồi phục sức khỏe nhanh hơn tí chút.

 

Chúng tôi đi tiếp. Gió hiu hiu đưa lại thứ mùi thum thủm như có con thú hoang nào bị ông kểnh xé xác, rồi sau khi no bụng, ông ta cẩn thận giấu phần còn lại cho bữa kế tiếp. Thế nhưng dưới chân chúng tôi, nhìn hết tầm cũng rặt là thứ “cỏ áy bóng tà” như thứ nàng Kiều bắt gặp chỗ mồ Đạm Tiên, chẳng có chỗ nào đủ rậm rạp cho kểnh giấu thứ thực phẩm hôi thiu khoái khẩu nhà cọp được cả. Kinh nghiệm đi rừng cho biết thứ mùi thum thủm là điều đáng sợ nhất. Loài cọp mỗi khi no nê xong chúng thường kiếm một chỗ lau lách kín đáo, thậm chí có khi cọp vào tận bếp tro còn hơi ấm của một lán trại nào đó ngủ say sưa, mồm há hốc ra cho giống  chim sẻ đất chui vào chui ra giúp hổ việc vệ sinh răng miệng. Đấy là lúc người đi rừng phát hiện thứ mùi trời gầm tanh tởm như những chỗ lở loét trên da thịt thiếu chăm sóc. Không khéo loài mèo khổng lồ nọ đang say giấc đâu đây. Chúng tôi căng mắt quan sát mọi phía vẫn không phát hiện được vị trí nào khả nghi nên tự cho phép mình thôi sợ. Cuối cùng, do một cú gãi đầu, tình cờ tôi phát hoảng khi nhận ra đấy là thứ mùi quí hiếm bốc ra từ… thái dương mình. Và mùi ấy do gã trâu đực nọ “kính biếu” lúc trèo gộp đá đã đổ đốn bất thần dạng hai chân ra. Lúc ấy tôi đã xử sự ngược lại phương châm của hạng người khí phách. Với họ, đã là nam nhi đại trượng phu thì “thà chịu chết chứ không chịu nhục”, còn tôi thì lại “thà chịu nhục chứ không chịu chết” và bằng lòng để gã trâu đực nọ “đóng dấu” vào thái dương mình khi cả hai hì hục ở chân gộp đá, và như vậy có nghĩa là tôi không thuộc loại người “khí phách” mà ngược lại thuộc loại người… “phách khí” vậy.

 

Mãi nghĩ ngợi lung tung, chúng tôi vượt đỉnh đèo từ lúc nào. Đường đã trở nên thoai thoải khá dễ đi nhưng cái mệt và cái khát xuất hiện chỗ đầu gộp đá hồi trưa giờ này đã rượt theo chúng tôi bén gót. Mũi miệng và cả tai nữa thi nhau thở. Hình như dưỡng khí  trên núi cao này bị hùm beo rắn rết tước đoạt quá bạo, chẳng còn lại được bao nhiêu nên các buồng phổi chúng tôi đều gặp tình trạng vào ít ra nhiều (tôi chưa biết không khí trên cao loãng hơn).

 

Mồ hôi tôi túa ra khắp trán quện với thứ mùi hăng hắc tanh tanh của gã trâu đực bết vào thái dương tôi tạo ra một loại mùi hiếm có trên đời, không xử lý chắc mũi tôi ngữi mãi đến rữa nát ra mất!

 

Từ khi phát hiện thái dương mình trở nên thảm hại trớ trêu như vậy, tôi dùng bã lá đã nhai xong, xát đi chà lại để đuổi thứ mùi nọ nhưng không ngờ thái dương tôi càng dậy mùi hơn trước. Tình hình này có thể ví với việc dùng nước hoa làm át mùi mồ hôi nách, càng tẩm càng  nồng! Tôi phải cam phận sống chung với thứ mùi xú uế ác ôn nọ, thành tâm khấn cầu thần Phật giúp tôi mau mau gặp được khe suối để giải cái nạn xấu hổ này. Nhất định khoảng gần chân đèo phải có những thứ tôi khấn cầu, bằng không thì tạo hóa lấy quái gì để thiết kế con sông Thu Bồn thênh thang ngòng ngoèo kia?

 

Thế nhưng chúng tôi đi sắp hết đèo Phường Rạch rồi mà khe suối thì trốn biệt đâu cả. Ngay các loại lá cứu khát cũng thưa thớt dần đi. May sao chúng tôi gặp được vài vạt bắp còi cọc cao chưa đến tầm vai của hai bạn tôi.

 

Bắp gần như chỉ toàn cùi, lác đác mới có vài ba hạt như trẻ con mới mọc răng sữa nên người ta bỏ mặc, không thiết canh tuần gì, tức là chúng tôi có … toàn quyền định đoạt. Chúng tôi “thổ phỉ” ba ôm lớn, người thì nhai cả râu cả cùi, còn lại gì thì lũ vật thanh toán gọn ghẽ, không để lại chút dấu vết, tang vật gì.

 

Chúng tôi đã tươi tỉnh ra chút đỉnh, cố sức lê bước đến hữu ngạn dòng Thu Bồn. Chỗ chúng tôi dừng lại là một bến chính của trục giao thông thời chiến.

 

Vừa qua cơn lũ tiểu mãn cộng với mấy trận mưa nguồn xảy ra chưa lâu nên nước sông chưa trong hẳn. Trâu và người cùng bước nhanh, xúm nhau uống nước, rửa tay, đầm mình thỏa thích. Mấy  chú trâu chỉ vừa đẫm lút thân hình là đứng lên bắt chước nhau gặm cỏ roàn roạt ở ven bờ. Chúng làm tôi nhớ đến con lừa Buyri-đâng (Buridan) ở sách giáo khoa tiếng Pháp.

 

Nhà bác học Buridan muốn xác định cái đói với cái khát cái nào mới thực sự bức thiết hơn. Ông cột vào cọc một chú lừa bị cấm ăn uống đã mấy ngày. Hai bên cọc ông đặt đối nhau và cách đều với cọc một giỏ cỏ và một xô nước. Lừa đổi ý kiến liên tục khi thì đi về phía cỏ, khi thì đi về phía nước nhưng dây buộc ngắn, không chạm tới xô nước hay giỏ cỏ được, cuối cùng kiệt sức ngã lăn quay. Nhà bác học nọ phủi tay, thí nghiệm thí nghiếc cóc rút ra được kết luận nào. Con lừa Buridan chỉ còn dùng để ám chỉ sự phân vân lưỡng lự, tiến thoái lưỡng nan. Các chú trâu của tôi “ngon” hơn nhiều! Chúng chẳng cần đợi bác học bác hiếc, thí nghiệm thí nghiếc gì hết trọi, cứ việc thoải mái minh chứng khá cụ thể rằng ăn uống, và cả tắm nữa cũng đều cần thiết như nhau. Chúng tôi lần lượt tiến hành cả ba việc thật lộn xộn tùy thích, không có  một bản xếp đặt thứ tự ưu tiên, mặc dầu thoạt đầu chúng tôi không hề có ý định tiến hành thí nghiệm của Buridan. Ai cũng dư sức biết rằng mọi truyện cổ tích đều khinh loài lừa là ngu thượng hạng, chả ra cái quái gi, vậy mà cái ông Buridan ấm ớ ấy chẳng chịu ngó trước ngó sau, chẳng chịu đọc cổ tích cho kỹ, nhè xách cổ nhà lừa ra làm thí nghiệm ẩu tả thì quả là hỏng kiểu triệt để, thất bại ráng chịu!

 

Các chú trâu của chúng tôi tự thí nghiệm thay ông Buridan khỏe ra. Chúng tôi bèn cột chung các đầu thừng vào nhau cho trâu tự gặm cỏ, chúng tôi lịch kịch dỡ hành trang, lúi húi lo bữa chiều. Tôi được ưu tiên miễn tạp vụ nhờ suýt bỏ mạng vì lũ, thành thử không tham gia sự chuẩn bị ấy, lại vì còn bận nhờ sông Thu Bồn “rửa” nhục cho tôi. Bứt dồn được một nùi cỏ non, tôi chà đi xát lại đến nóng ran thái dương bên phải dù nó đang ngâm trong nước sông. Tôi làm như vậy riết một hồi lâu cho đến khi xoa tay lên chỗ ấy nhiều lần, mũi tôi không còn cảm thấy đau khổ bởi hơi hướng của thứ mùi tai ác nọ. Rốt cuộc tôi cũng lập lại nguyên trạng cho thái dương mình trong buổi sáng, tức là khi chưa cưỡng bách chú trâu thứ ba bước lên gộp đá đầy khủng bố ở chân đèo Phường Rạch. Nỗi vui mừng của tôi có chất lượng tương đương nỗi vui của một bệnh nhân hôn mê lâu ngày, vừa tỉnh dậy hé mắt liền nhận ngay ra cô y tá xinh ơi là xinh.

 

Mấy chú trâu mải mê gặm cỏ mượt ở bờ sông, Trông chúng thật là tràn trề hạnh phúc. Thế mà chỉ mấy hôm nữa chúng sẽ bị hóa kiếp thật lạnh lùng ở một lò mổ nào đó thì loài người thật quá ư tàn nhẫn. Nhưng biết đâu việc hóa kiếp ấy lại kết thúc cuộc đời đày đọa của chúng, và tôi chính là kẻ gián tiếp tạo ra thứ ân huệ ấy?

 

Chúng tôi giong trâu qua sông Thu Bồn vào lúc làng xóm hai bên sông đã ngủ yên, đèn đóm tắt ngấm, chỉ còn nghe vài tiếng chó sủa vu vơ ở xa xa, điểm thêm mấy tiếng cú áo não. Đấy là lúc loài trâu lim dim ngủ chập chờn, mồm nhẩn nha “nhai kẹo cao su” để suy tư kiếp đời tội nghiệp của chúng. Trái lại, chúng tôi cưỡng bách bốn khối thịt sống ấy di chuyển liên tục, lỡ bữa lỡ giấc, vì vậy có lẽ mỗi con đều rất căm chúng tôi, chỉ mong có dịp để phản đối và dịp đó xảy đến khá nhanh.

 

Qua mới được nửa sông thì chúng bắt đầu giở chứng. Hung hăng nhất chính là con trâu thứ ba: gã trâu đực. Gã mỏi chân hay ể mình gì đó nên không thèm đạp bước nữa, nằm trơ ỳ ra, co rúm bốn vó. Chiếc thừng tuột dài trong tay tôi nóng rát. Tôi đành phải buông tay để mình khỏi rơi xuống dòng sông lạnh đêm khuya. Sức đẩy Ac si mét (Archimède) chỉ biết có mỗi một việc là đẩy đại từ dưới lên trên, chẳng giúp gì cho ra hồn. Phải chi ông ta để cho sức nọ đẩy xiên xiên về phía tôi một chút thì tôi biết ơn ông ta biết mấy!

 

Tội nghiệp! Gã trâu đực nọ vốn là con dân Tiên Phước từ nhỏ đến lớn đâu có quen biết gì cảnh trời rộng sông sâu tối tăm mờ mịt rùng rợn đến thế!

 

Tôi cho rằng cuộc giở chứng của gã trâu đực rất có thể do sông Thu Bồn có vấn đề! Ta đã biết rằng dù là sông hay núi, một khi đạt đến tầm cỡ đáng kể thì nảy sinh vô số vấn đề. Nào là đông nắng tây mưa, bên lở bên bồi, bên đục bên trong, v.v… và v.v… Gã trâu đực phản ứng thô bạo, kháng lệnh triệt để, biết đâu chỉ vì nước sông Thu Bồn lạnh hơn quá đáng ở phía Đại Lộc? Phải chăng gã ngầm tỏ thái độ rằng ở phía hữu ngạn thì gã chịu khó lội chơi với các ả cho vui chớ phía tả ngạn thì đừng hòng bắt gã phải lội? Gã phải để dành sức chứ!

 

Điều làm cho tôi lộn gan là dưới ánh sao mờ, tôi thấy gã hăm hở dùng thứ vận tốc bứt phá rút về đích, điều chỉ thấy ở những vận động viên cự ly dài đang sùng sục quyết tâm. Gã đã chơi trò “đánh bài ngửa” với đám thương nhân xui xẻo chúng tôi đây. Lão đã đẩy chúng tôi vào tình cảnh thực sự khốn đốn vì kinh phí chúng tôi chỉ còn cho ba ngày ăn đường và đã phải kê khai thật chi tiết về tình hình bị nước lũ cầm chân, đến nổi nhà đò xiêu lòng thông cảm đám thương nhân lạ mặt, quá non kinh nghiệm nên tính giá phải chăng cho chuyến giong trâu. Giờ đây chuyến ấy bị nâng kinh phí lên gấp ba chỉ vì trò giở quẻ của gã trâu đực!

 

Nóng ruột một hồi thì đò ngang cũng cập bến. Chúng tôi để một đứa ở lại canh ba ả trâu cái. Giữa đêm khuya khoắt, lạnh lẽo, chung quanh lại toàn bắp với bắp, Việc “cai trị” mấy ả trâu cái này chả dễ dàng gì. Công việc của hai đứa tôi tuy là có nhọc nhưng kể ra cũng thoải mái hơn.

 

Hai đứa chúng tôi thuê chiếc thuyền con quay lại cho nhanh, may ra tóm kịp gã trâu đực trước khi gã ca khúc khải hoàn về đến Tiên Phước. Nguy cơ cháy vốn của chúng tôi cao sừng sững, sẵn sàng ụp xuống bất cứ lúc nào.

 

Hai kẻ tìm trâu vừa rời khỏi thuyền thì mây đen đã giăng kín bầu trời, xóa sạch bao nhiêu là sao. Thật là chua chát. Vận đen của chúng tôi đã ngấm cả vào lắm thứ, nào đêm đen, mây đen, cả gã trâu đực cũng đen nốt. Tìm lại  đen ấy trong mọi thứ đen như thế thật là khó khăn muôn vàn. Đã vậy, bãi sông phía Duy Xuyên này cũng làm khó thêm: Cả bãi trống toàn dâu, có xen một ít thuốc lá Bến Đền. Nếu có trồng bắp, hoặc mía, chúng tôi có ngay địa chỉ của gã trâu đực qua tiếng sột soạt vang vang ra hay tiếng vặt lá lào xào của gã. Đêm đen ở một nơi lạ lẫm làm chúng tôi sợ đủ thứ nên hai đứa không dám chia phía đi tìm, cứ giữ cự ly năm bảy mét, vừa đi vừa trò chuyện linh tinh. Mấy cô bạn gái cùng lớp trong năm qua được chúng tôi đưa vào chuyện tất tật. Tôi thử kiểm điểm xem có cô nào yêu mình hay mình đã yêu cô nào không, té ra chả có quái gì hết, mặc dù ở tuổi dậy thì, các cô cũng đỏm dáng ra trò! Rõ ràng là tình trạng suy dinh dưỡng triền miên đã biến thành thứ quyền uy cầm chân sự háo hức của bản năng.

 

<Tiếp #5>

 

Cứ tưởng hướng câu chuyện về lĩnh vực như thế sẽ làm mình đỡ mệt hay đỡ buồn ngủ nhưng cái gì cũng có giới hạn của nó, thủ đoạn bá đạo ấy của tôi cũng không đánh lừa cho hai mi mắt đừng díp lại và đôi chân linh hoạt hơn để lên bờ xuống ruộng đúng cách. Tóm lại chúng tôi té oành oạch thỏa thích, mắt cá chân và đầu gối sưng vù ê ẩm. Có tiếng gà gáy phía làng xóm xa xa. Lại lác đác có tiếng dệt cửi vẳng lại mơ hồ. Thứ tiếng này gây xao xuyến chi lạ, bởi những năm trước cách mạng tháng Tám, nhà tôi cũng có khung dệt và ở tuổi lên mười, tôi đã tham gia việc quay ống, quay suốt và dệt lén vài tấc khi  mọi người đi vắng. Tiếng dệt cửi xa xăm gợi lên cho tôi một quá khứ, một quê hương, một cuộc chiến. Chúng đã lấy mất của tôi quá nhiều, rất nhiều… Trong trạng thái mộng du về miền kỷ niệm, chân tôi vấp phải hòn đá ẩn dưới cỏ, ngã chúi vào bờ ruộng cao. Tiện thể tôi bảo:

 

-         Nghĩ một lát đã!

 

Phịch một tiếng, gã bạn tôi đã ngồi nhanh hơn cả tôi. Có lẽ gã nghĩ đến việc này sẵn trong đầu trước cả lúc tôi đưa ra lời đề nghị của mình.

 

Đi với nhau cả đêm, chuyện trò mãi cũng chán. Tôi chỉ ngồi suy nghĩ bâng quơ. Vấp phải hòn đá dưới cỏ, lẽ ra móng chân cái của tôi đã phải há hốc ra cho máu chảy, thế mà chỉ thấy rịn rịn nhức nhức. Té ra tôi đã suy nhược đến mức vấp phải đá cũng chả vấp được một cú cho ra hồn! Thảm quá!

 

Sau lưng chúng tôi là một bờ đất cao quá đầu như tường thành. Nhất định là trâu không sao leo lên được. Nhìn dọc bờ cao ấy cũng chả thấy đống đen lù lù nào. Thình lình tôi nghe có tiếng thở khì rất to ở phía xa. Chúng tôi nhỏm ngay dậy, men theo hết bờ đất cao, đi riết đến tận ven xóm mới bắt gặp gã trâu đực đang chơi trò “nhai kẹo cao su” ở đấy. Ông bạn tôi hí hửng về viễn cảnh thu hồi vốn, lật đật quay lại tìm nắm dây thừng. Tôi chợt hô to:

 

-         Rắn !

 

Gã như bị điện giật, khựng lại rồi lùi về phía tôi, miệng lắp bắp:

 

        - Rắn … đâu …? S..ao…mày thấy?

 

Tôi khúc khích:

 

-         Thấy gì mà thấy! Mắt tao đâu có hơn gì mắt mày? Có điều ban đêm đi trong trong ruộng cỏ phải đề phòng rắn. Biết đâu trâu giẫm phải rắn, nó phập cho một phát, đi không nổi nữa nên đành nằm lại đó đền tội.

 

Tôi bẻ hai nhánh dâu đưa gã cầm rồi móc bật lửa ra, xé vài trang sổ tay làm đuốc, bảo:

 

-         Mầy gắp cho khỏe nhé! Cuốn đầu giấy vào một nhánh dâu đã rồi hãy gắp. huơ nhẹ để dễ nhìn.

 

Soi mất mấy trang sổ tay, người chủ hàng vô phúc mới dám nắm đầu thừng lôi món hàng phản phúc đứng lên. Gã trâu đực ngoan ngoãn bước theo chúng tôi lừ đừ  ra bến. Kẻ vô phúc dắt con vật phản phúc, chán ơi là chán!

 

Một tiếng hú dài của tôi được phía bãi tả ngạn đáp lại. Tính ra tiếng hú của chúng tôi vang xa ngót nghét cây số, có lẽ nhờ sóng âm không gặp ách tắc gì.

 

Tiếng chèo khua nước nghe rõ dần. Cứu tinh đã tới. Mọi chuyện diễn ra suông sẻ trong vòng dự kiến. Gã bạn bảo tôi:

 

-         Tao kịp nghĩ lại rồi. Giờ đây tao giận mày cũng gần bằng giận con trâu đực phản phúc.

-         Thiệt vậy sao? Mày dám xếp hạng tao vậy à?

 

Giọng gã uất ức:

 

-         Mầy biết ban đêm lội trong ruộng cỏ dễ gặp rắn, vậy sao chờ đến lúc gặp lại trâu mày mới chịu nói? Mầy cố tránh rắn một mình, còn mặc xác cho tao lãnh đủ, phải không? Lẽ ra mày phải nói ngay từ hồi còn ngồi ghe qua sông chớ ! Mày chờ cho rắn đớp tao chớ gì?

 

Giọng gã thật ai oán, chứng tỏ gã mất sạch lòng tin về tình nghĩa bạn bè, về nhân cách con người, về vân vân mọi thứ. Tôi cần phải giải quyết từ từ, tham cho nhanh là hỏng bét. Tôi ôn tồn bảo gã:

 

-         Nếu giao cho mày di một mình thì tao mới dặn dò kỹ lưỡng. Còn đi với tao thì dặn làm quái gì cho hao hơi? Lúc nãy tao đi trước mày hay mày đi trước tao?

 

Gã hành hạ trí nhớ mình cả một lúc lâu mới đáp gọn lỏn:

 

-         Thì mày!

 

Tôi giảng giải:

 

       - Như vậy, có bị rắn cắn là tao bị chớ dính dáng gì mày ? Chẳng lẽ tao giẫm nhầm rắn, rắn lại giục “Mày đi nhanh đi ! Để chờ thằng đi sau tới đã tao mới tính cho nó!”

 

Gã cười xòa:

 

-         Mệt ứ hơi mà mày cũng chọc lét tao được. Hèn gì mấy đứa con gái hồi Nhất niên A cứ vây quanh mày suốt!

-         Mày ngu bỏ xừ ! Mấy bà ấy toàn cỡ chị tao cả thôi. Bộ mày không thấy như vậy à ?

 

Gã lái câu chuyện về hướng cũ:

 

-         Ừ thì cho là vậy. Trở lại chuyện rắn đã. Đành là tao đi sau mày, nhưng kẻ tử tế thì phải dặn dò bạn bè đề phòng nguy hiểm thì mới là … phải đạo chớ?

-         Nếu giữ cho phải đạo, chắc gì mày chịu đi kịp tao? Rồi cứ sớn sác nhìn xuống chân lom lom để coi chừng rắn chớ đâu chịu căn mắt ra cùng tìm trâu? Đúng không?

-         Ừa cũng đúng!

 

Tôi “giảng” tiếp:

 

-         Thật ra, rắn sợ mình là chủ yếu. Quơ quơ cái gậy trong cỏ là hù dọa bà con nhà rắn chạy tóe khói. Việc ấy được coi là “đánh cỏ làm rắn sợ” (Đả thảo kinh xà). Mà một khi đã sợ thì làm sao cắn kịp?

-         Vậy chuột chạy trong cỏ cũng giống việc “đánh cỏ” sao rắn lại tóm gáy được mà không sợ?

-         Chuyện đó thì khác. Thật ra rắn không bắt nổi chuột đang chạy đâu! Cũng không đủ tài rượt theo chuột đang chạy để bắt. Người ta bảo “nhanh như chuột nhắt” kia mà! Đây có lẽ là sự mầu nhiệm của tự nhiên. Dù ban ngày hay ban đêm, chuột hoặc chim gặp rắn là co  rúm nộp mạng chớ chạy hết nổi, cất cánh cũng không xong. Chuột đang chạy nếu thấy rắn liền dừng ngay lại, co rúm núp ngay vào chỗ rậm, run lẩy bẩy. Việc làm ấy khiến nhiệt độ thân chuột tăng lên. Rắn vừa bò vừa chìa lưỡi bén nhạy ra đo nhiệt độ môi trường, đến vừa tầm là phóng mạnh đớp nhanh. Còn người nếu đạp nhằm lưng rắn, dù gãy hay không gãy xương sống, rắn vẫn “cốp” nhanh một phát cốt dạy cho lũ người  biết thế nào là lễ độ.

 

Gã cười:

 

-         Dạy mày chưa?

-         Rồi ! Một lần.

 

Thuyền cập bến. Cuộc đoàn tụ thật là mừng mừng tủi tủi. Suốt mấy giờ vừa qua tâm trạng mỗi đứa chúng tôi đều đã “sống” quá nhiều. Gã ở lại chạy bổ ra đón. Gã cùng đi tìm trâu với tôi bên kia sông thở phì một tiếng, cất giọng so bì:

 

-         Mầy sướng quá hé!

 

Tôi tiếp lời hắn ta ngay:

 

-         Mày ở lại, chắc là bận bịu tối tăm mặt mày chớ gì? May cho mày lắm đó! Không bận tay bận chân như vậy thì giờ này quần áo mày thối hoăng, khai rình cả rồi! Phải không?

 

Gã thú nhận:

 

-         Thiệt là cực và sợ muốn chết! Ở đây chả có chỗ nào cột trâu. Chỉ cột vào gốc bắp. Tao cột mỗi thừng vào năm bảy gốc bắp mà hở ra là chúng nhổ phăng. Thật tội cho chủ ruộng chớ biết sao! Trời tối đen lại thêm tiếng gió xào xạc làm tao sợ chết khiếp. Hồi nãy phía trên kia còn có tiếng chân người bước thình thịch, chuyện trò râm ran nữa. Tao sợ rủi gặp bợm trộm trâu đi ăn đêm về ghé lại thăm thì toi! Tao nín khe cả một luc lâu tim mới hết thì thụp.

 

Suốt mươi hôm nay, gã chuyên việc đầu bếp còn chúng tôi lo cái ăn cho trâu. Vì vậy gã có quyền ngủ sớm để khuya dậy sớm lo cơm nước lên đường. Muốn nói chuyện cũng không có người, có dịp. Hôm nay bổng dưng gã lắm lời đến thế. Ngồi một mình giữa đêm vắng gã ngấm cô đơn đến cùng cực nên cơn thèm nói hành hạ gã có lẽ rất ghê gớm. Tôi hỏi:

 

-         Hàng hóa đâu?

 

Gã chỉ tay về phía cuối ruộng bắp:

 

        - Tao giấu rồi! Từ lúc tao nghe tiếng chân người ở phía đầu gió. Hai gã lật đật đi thu hàng về. Tôi đứng chờ một mình bên gã trâu đực cùng với đám muỗi đói lì lợm.

 

Gom trâu xong, chúng tôi bàn nhau đi thẳng vào chân núi Đại Quang. Chần chờ nơi đây rất dễ xảy ra sự cố bất trắc.

 

Xã Đại Quang (Đại Lộc) bấy giờ thuộc quyền quản lý của cả hai bên đối địch. Ngụy quyền do Pháp lập chỉ quanh quẩn ở huyện lỵ, năm thì mười họa mới bám theo quân đội về thăm xã, hiểu dụ qua quýt này nọ rồi tót theo về Ái Nghĩa. Chính quyền bên phe kháng chiến mới thực sự bám trụ. Chúng tôi đến đây là đã đi hết “vùng tự do” và sắp sửa tiến vào “vùng tạm chiếm”.

 

Chúng tôi  nghĩ hẳn một ngày để lo nạp năng lượng cho trâu và cho người.Tuy nghỉ ngơi thư giãn tối đa nhưng chúng tôi chẳng thấy thư thái được bao nhiêu vì có “thư giãn” suốt tuần cũng không thể nào bù nổi cái “căng thẳng” sắp phải đón nhận của đêm nay và suốt cả ngày mai. Chúng tôi chia nhau hai đứa thức lo mọi chuyện, một đứa ngủ thật no giấc. Cho hai đứa ngủ kể cũng chẳng sao, nhưng gặp khi cần phải dựng dậy cho được thì vất vả và trễ nãi quá.

 

Khoảng mười giờ đêm, chúng tôi khởi hành men theo cánh đồng Song bình, phơi thân cả người lẫn trâu cho lính đồn Núi Lở … thử súng và lập thành tích chiến đấu ngẫu hứng.

 

Tính ra trong cuộc hành trình này, chúng tôi đã phải gặp khó khăn gấp mười lần những điều dự kiến trước lúc lên đường.

 

<Tiếp #6>

 

Trước tiên tôi phải giả từ chiếc đồng hồ đeo tay rẻ tiền của mình để đền chủ một đám mạ và bộ quần áo vải ngoại để đền một đám khoai ở vùng Trung Phước chỉ vì “con trâu thứ ba” giữa đêm cảm thấy đói, bứt thừng đi lang thang tự lo việc … cải thiện!

 

Gã chẳng thèm nể nang đứa nào trong bọn chúng tôi, lắm lúc gã còn làm tôi lộn ruột. Tôi có kinh nghiệm sâu sắc về loại trâu có màu da đen nhánh này. Hể gã nảy ý thích quơ đại một tàu chuối non bên đường là gã thản nhiên bứt ẩu, tôi mà níu thừng cản trở là lão “xách” tôi theo gọn bân.

 

Cũng may mà người xưa phát minh ra cách điều khiển trâu bằng trò xỏ mũi dắt đi. Nếu người ta lỡ bày ra trò xỏ tai thì chắc gã trâu đực nọ thừa sức lôi tôi đến cùng trời cuối đất như chơi!

 

Chúng tôi “ngậm tăm” đi lấn vào chân núi Đại Quang vì ở vị trí này, chúng tôi đang “thẳng góc” với đồn núi Lở. Bảo rằng “ngậm tăm” không có nghĩa là chúng tôi vừa từ tiệm ăn bước ra. “Ngậm tăm” có tiếng gốc là “hàm mai” (ngậm que tăm) của Trung văn. Ngày xưa các ông tướng muốn chuyển quân thật bí mật thường thực hiện trong đêm tối, mỗi người lính phải ngậm một que tăm, nếu vô tình hở môi tăm rơi mất là tha hồ nhận quân pháp trị cho tới bến.

 

Đèn điện đồn Núi Lở sáng choang nên chúng tôi cảm thấy nó ở quá gần, khiến chúng tôi sợ bở vía. Cũng may là vào giờ ấy, chỉ có tên lính canh đèn pha là túc trực, số còn lại toàn chúi mũi vào sòng bài là thú vui duy nhất của lính tráng trấn đóng đồn tiền tiêu như Núi Lở.

 

Đang vật vờ cất bước, bất thình lình gã trâu đực giật dây thừng tuột khỏi tay tôi, lồng lên va mạnh vào tôi một phát. Tôi văng quách vào bụi cây ven đường. Toàn lưng và cánh tay phải của tôi kẹt cứng giữa lùm chà là. Hàng trăm mũi dao găm của thứ lá quái quỉ này chọc tua tủa vào người tôi thật buốt xót trong gió rừng se se. So với tai nạn ở quãng đường vượt lũ hôm trước thì cả hai lần đều giống như cá trong giỏ bị một gã đãng trí trút ra nhưng quên mở hom giỏ, có điều cái đau ở khu lũ là thân cá lóc, cái đau ở ven núi Đại Quang này là thân cá trê!

 

Tôi phải nén đau nhận thêm hàng chục mũi dao găm chà là đâm bồi như vậy nữa mới chật vật chui khỏi lùm cây tội nợ ấy rồi lom khom chạy theo mối thừng kéo lê vung văng trên mớ sỏi cơm. Lẽ ra tôi chợp kịp nhưng món sỏi cơm làm đôi dép lốp của tôi trượt mấy cái liền, mông tôi ê ẩm tàn tệ, đành khổ sở nhìn gã hung thần ‘sát gái” ấy chồm lên phủ lên thân sau của ả trâu cái đi gần. Ả này quyết liệt khước từ món “ngầu pín” biếu không nhằm lúc nên cuống cuồng chạy đâm bổ về phía trước nhưng cái gã lì lợm ấy nhất định không chịu buông tha. Sáu cái chân hất tung sỏi cơm bắn rào rào liên tục lên cây lá lùm bụi hai bên đường mòn cộng với tiếng chân thùi thụi vang lên trong đêm lặng khiến hồn vía chúng tôi phi tuốt lên mây rồi còn phi tuốt lên mấy đợt nữa.

 

Bụp… bụp… bụp… Ba quả pháo sáng phụt lên bầu trời Núi Lở. Không gian sáng trưng như đêm lễ hội. Lần đầu gặp cảnh tượng ấy, cả đàn trâu lồng lên chạy thụt mạng, ba bóng đen lom khom hớt hãi theo sau.

 

-         Cum!... Cum!... Cum!... Cum!... Oàng!... Oàng!... Oàng!...Oàng!...

 

Bốn quả đạn cối rơi theo bén gót. Tiếng rè rè của mảnh đạn chém gió, quất rẹt rẹt vào những lùm sim, mua, v.v… mà chúng tôi mới vượt qua trước đó mấy giây. Hú vía!

 

Loạt đạn thứ hai cách chúng tôi xa hơn. Chắc đồn này xài súng quá cũ hoặc lão phụ trách “giã” cối vừa chợt thức giấc thình lình nên đón tiếp chúng tôi trong tình trạng mắt nhắm mắt mở, khoảng cách lại quá xa nên khả năng sát thương gần như bị triệt tiêu.

 

Hai gã bạn chạy trước đã kịp ngoặt vào ngả Khe  Điên. Tôi thất thiểu phờ phạc tìm đến nơi đúng vào lúc trăng hạ tuần đã ửng lên lòa nhòa sau lớp sương mù dày đặc. Chúng tôi lăng xăng chọn chỗ cột trâu.

 

Chẳng thừa chẳng thiếu, tả ngạn Khe Điên thiết kế cho chúng tôi đúng y chang bốn lùm chà là. Chúng mọc cánh đều nhau theo dạng chụm đầu ông táo. Loài cây này chỉ cao ngang đầu người, lá đối nhau như tàu dừa, có bộ rễ rất chắc, cành lòa xòa ngang mặt đất, mũi lá ngọn hoắt nên loài bò sát tránh xa, chúng chỉ tìm đến đấy khi có nhu cầu… bóc vỏ cho bản thân.

 

Tuy biết đặc tính  của chà là vốn là thứ khắc tinh của trăn, rắn nhưng chúng tôi vẫn phải kiểm tra cẩn thận: Chúng tôi ném sỏi rào rào vào bụi cây, dù nhỏ bé như con trùn con nhái cũng phải nhận năm bảy viên làm “sứt đầu mẻ trán” như chơi, nói chi trăn, rắn? Một lúc khá lâu vẫn không thấy con vật nào bò ra, chúng tôi yên trí, cột trâu vào. Bốn chiếc thừng giong dài cho phép trâu đi tới đi lui đỡ phải cuồng chân mà cũng dễ tránh né chút ít bầy muỗi rừng khủng bố.

 

Mọi việc xong xuôi, chúng tôi quay lại chỗ bờ Khe Điên thu xếp chỗ nghỉ ngơi. Vị trí này khá tốt đẹp vì có được ba bốn lớp đồi che chắn tầm quan sát của lính đồn Núi Lở.

 

Chúng tôi trãi áo tơi lá làm nệm. Không có thứ vật dụng này, cái lưng đầy vết gai tre và mũi lá chà là của tôi nhất định không tài nào đặt lên đám sỏi cơm được.

 

Vừa chợp mắt được một giấc nhỏ, tôi choàng dậy theo thói quen của người cả lo. Mấy chú trâu cũng bồn chồn vẩy tai liên tục. Tôi kiểm tra một vòng rồi về lại chỗ nằm.

 

Tôi toan ngả lên tấm tơi lá thì thót tim khựng lại, không dám nhúc nhích vì nghe loáng thoáng tiếng cành lá va quẹt nhau sột soạt ở bên kia khe, nơi chúng tôi đã đi qua vào lúc trăng mới ló. Lẫn trong tiếng gió còn văng vẳng tiếng xì xồ rất mơ hồ. Hơn ba phút sau, một loạt bóng đen lục tục xuất hiện càng lúc càng đông, đứng ken dày phía bờ khe bên kia.

 

Người tôi căng lên như dây đàn. Tôi sợ cả tiếng tim mình thình thịch…

 

Còn tiếp…và hết

 

<Tiếp #7>

 

 

 

Giáo Sư Ngô Văn Lại  吳文赖老師

(Thái Trọng Lai  太重来)

Việt Nam, 2014

 

 

 

 

 

 

 

 

*   Ai bảo chăn trâu là khổ…   *

 

 

 

 

*** 投稿電郵請寄 ***

Bài vở & hình ảnh xin gởi về Ban Phụ Trách KHAIMINH.ORG

 

VanNgheGiaiTri@KhaiMinh.org

 

 

 

啓明网站  |  Copyright ©  2004 - Present   KHAIMINH.ORG  |  Website Disclaimer