Nếu
có ai đó động máu tò mò đột nhiên hỏi
tôi:
-
Thưa cụ,
ngày xưa vì lẽ gì cụ chọn Viện Hán Học
Huế để theo học ạ?
Nhất
định là “cụ” chẳng ngần ngừ một
“sát na”* nào để lùng sục lục lọi ký ức
mà trả lời xong béng cái rụp:
-
Truy tận ngọn
nguồn thì có lẽ do cái chữ ký của lão hồi ấy
dẫn dây dắt nhợ tạo ra cớ sự…
Nguyên
vào năm 1951, tôi được bầu làm Phó bí thư
ở Khánh Thọ, tôi bèn hăm hở, hùng hổ, hung
hãn rồi hả hê luyện một chữ ký rất mực
hoành tráng và cực kỳ bay bướm cho xứng
đáng với… “cương vị
chính trị” của mình. Cũng có lúc tôi ham hố, hùng
hục ký riết một lèo có đến cả nghìn chữ
rất chi ư là hí hửng, hồ hởi hẳn hoi.
Luyện
chữ ký đương nhiên là thứ tệ nạn
thiên hạ đã đầy nhan nhản nhưng việc
luyện thật say sưa, tích cực của tôi vào thời
ấy nhất định đáng coi là có đẳng cấp
dễ nể, không… là sư tổ hay sư bá thì cũng
vào hàng sư phụ, chứ nếu chỉ coi tôi là hạng
sư thúc, sư huynh, sư diệt v.v… thì tôi sẽ kiện
tới bến bao nhiêu loại toà kể từ sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tối cao v.v… Nói
chung là tôi đụng đâu ký đấy, ly nước
tạt ra bàn vũng nhỏ nhỏ cũng đủ gợi
hứng cho tôi chấm nước vào đầu ngón tay
ký bừa phứa, chữ nọ chưa kịp khô hẳn,
chữ kia nối tiếp liền tay (tất nhiên là ôi còn phải tạt thêm mấy
tạt nữa mới thoả… cơn nghiện!).
Đi dạo ven sân, bất chợt phát hiện một
chỗ đất nào đó hơi mịn mịn,
(điều kiện tất yếu là không có phân gà vịt)
tôi sà xuống chuyển ra tư thế ngồi xổm
rồi gạt, ký, gạt, ký, khi dùng que, khi dùng đầu
ngón tay trỏ, cứ thế cho đến lúc tê chân, mỏi
gối mới tàn cuộc. Rồi còn là phấn trắng
ký lên bảng đen, than đen ký lên vách trắng, mũi
dao ký lên vỏ cây, vân vân và vv…
Có gã bạn
học ngồi cùng bàn, thấy tôi ký đầy vở
nháp, ngứa mắt xong quay ra ngứa mồm, phán một
câu nghe mới dễ ngứa gan:
-
Ký kiểu nầy,
nhứt định mầy … ở tù không dưới bốn
lần đâu!
Với
một kẻ duy vật trên mức trung bình như tôi hồi
ấy, gã phán nhảm nhí đến thế thì mặc
xác cho gã nghe lấy một mình chứ đừng hòng
tôi mê tín mê tơi gì ráo! Tức là tôi vẫn tiếp tục
ký, ký và ký. Chỉ có điều làm tôi phải ngậm
ngùi thở ngắn thở dài tự chia buồn với
mình là chả có dịp nào tôi được vung tay múa
chữ ký ngon lành ấy của mình cho đã đời
vì mọi văn bản lớn nhỏ lẫn vừa vừa
đều bị lão Đoàn trưởng đích thân ký
tất tần tật và vô cùng chuyên nghiệp. Lão vốn
là cán bộ Tây Nguyên - về trường để nâng
cao văn hoá - tuổi lớn gấp rưỡi tuổi
tôi, vậy mà quanh năm ngày tháng chả thèm ấm
đầu, sổ mũi, viêm xoang lấy một bữa
cho ra vẻ (ngay đến vi trùng sốt rét cũng
đầu hàng lão ta mới thật là lạ đời!).
Cơ sự ấy làm cho cái chữ ký hoành tráng bay
bướm, huê dạng có thừa của tôi đành cam
bề xếp xó. Mãi khi bỏ học về quê, làm vài
ba chức vụ vớ vẩn tôi mới có cơ hội
ký vung vít thật thoả chí bình sinh.
Lời
phán của gã bạn “khủng bố không liều chết”
ngồi cùng bàn hồi ấy hình như hắn mở
máy phát gặp phải giờ linh hay sao mà hoá ra ứng
nghiệm lần lượt, tôi ở tù sạch cả
bốn bận chẳng thoát trận nào: 1952, 1955, 1956,
1958 đến nỗi Sở Lục hình1 của
mật thám Pháp ở Đà Nẵng đã ưu ái cất
hộ tôi cả mớ danh bản2, chỉ bản3
có đến 60 dấu lăn tay đầy ắp chất
lượng nghệ thuật vào cái năm 1952 ấy nữa.
Sống
chung với bốn khối tiền sự kềnh càng
vướng víu đến thế tôi khó hòng chui lọt
cửa xin việc nào, đành tự cho mình… nghỉ
phép dài hạn giữa hai lần đi tù. Trong thời
gian “nghỉ phép” ấy, tôi “cam tâm tình nguyện” làm môn
đồ "ruột" cho đại gia Blaise Pascal
(1623-1662) nên vận dụng triệt để câu phát
biểu ngon lành nhất của "luý": "Tôi là
cây sậy, mà là cây sậy biết suy nghĩ" tức
là hễ nghe tiếng gió phải lập tức xiêu theo
ngay mới khỏi gẫy cho nên khi thì tôi ngoan ngoãn
khoanh tay nghe ông Ban ngày chửi ông Ban đêm, khi thì hồ
hởi nghe ông Ban đêm rủa ông Ban ngày, thỉnh thoảng
ông Ban đêm ngẫu hứng còn nhờ cậy tôi
đi tô khẩu hiệu to đùng trên mặt quốc lộ,
chỉ cách đồn Cầu Đỏ một khúc
quanh chừng một cây số, vì vậy luôn phải dỏng
tai để cảnh giác thì ít mà để nhận ra
tim mình lúc lắc lì lợm trong lồng ngực thì nhiều.
Có khi hai chú cháu nhà tôi co ro giữa gió khuya lạnh
căm căm mỗi đứa giữ một đầu,
lập cập leo lên nóc cầu sắt treo băng rôn
hoan nghênh, đả đảo nầy nọ, coi hai bót
gác ở hai đầu cầu như đồ vô hình
(giữa đêm khuya trời lạnh, tôi làm cho hai bốt
gác ấy vô hình còn dễ hơn nhà ảo thuật
đẹp trai nọ xứ Cờ Bông làm biến mất
nữ thần Tự Do ở vịnh Hudson). Bọn
lính tráng ở hai bốt gác bấy giờ cóc thèm tuần
tra canh phòng gì cho rầy rà, cứ lo chụm đầu
đánh bạc cháy túi rồi lăn ra ngủ thẳng
cẳng, chỉ việc gần sáng mới nhớ dậy
thật sớm ra giữa cầu lẳng lặng tháo
xuống là êm ru bà rù! Đưa bốn nhát dao phựt! phựt! phựt! phựt! là đâu lại
hoàn đấy, quan to quan bé chẳng kỷ luật kỷ
liếc gì cho rách việc.
Lão trung sĩ Phòng Nhì - trung sĩ Hải, cao 1,85m -
của Đại đội lính Cao đài đồn
trú bảo vệ cầu nọ có lần đứng
đối diện tôi qua lưới bóng chuyền,
nghiêm mặt bảo nhỏ vừa đủ cho riêng
tôi nghe: “Đừng ẩu nữa nghe cha! Tóm cổ cha
tại trận dễ như đập banh! Hẹn cha
ngày lễ Việt cọng lần tới!”. Tôi toát mồ hôi lạnh, gật nhẹ
để tạ ơn tha mạng, biết là có giở
trò “mồm loa mép dãi”, đòi hỏi bằng chứng bằng
cớ nầy nọ chỉ chuốc hại cho mình.
Ở
hoàn cảnh ấy, tôi nghỉ đi suy lại thấy
mình chỉ còn cánh cửa hẹp để bon chen
mưu sinh với đời là chọn nghề hớt
tóc hay thợ may gì đó.
Tôi còn
đang cân nhắc việc nên mua sắm tông đơ
hay đèn cầy thì đã bị nhiều người
biết chuyện, đến tận nhà phản đối
rầm trời! Chả là vì hồi giã từ chốn
chiến khu thơ mộng - nơi tôi từng thưởng
thức những cuộc nhịn đói maratông (khi
nước lũ hung tợn chốn rừng sâu ngáng
đường đi lĩnh gạo) - tôi dựa vào
Điều khoản gì đó của Hiệp định
Giơ-neo quy định đại khái hai bên không
được trả thù lẫn nhau tôi về lại quê nhà chỉ
mang theo trình độ học lực quá ư còm cõi của
lớp Sáu thời chiến, rồi lần lữa, ít
lâu sau…ngứa ngáy chuyện sách đèn, tôi đạp xế
điếc đều đặn ngày ngày đi Đà Nẵng
học phất phơ mấy tháng trường tư,
tính ra chưa bằng con cái người ta học ráng
thế mà bợ ngay về cái "đíp lôm" ngon
ơ khiến cho các chú nhóc trong làng lé mắt hăm he rằng
chỉ cần cơm mắm canh rau ít lâu cho phép mình nhỉnh
nhỉnh thêm vài ba tuổi cùng năm bảy ký hơi nữa
là thừa sức noi gương, rượt đuổi
rồi vượt qua ông anh lếu láo một phát thật
ngon lành ngoạn mục! Vậy mà ai ngờ tôi đang
tâm phá bĩnh, đem nghề hớt tóc làm thứ mìn giật
nổ con đường phấn đấu tiến bộ
của con cháu họ, làm văng miểng tùm lum, đời
nào họ chịu để yên cho tôi tự tung tự
tác ẩu tả đến thế?
Người
ta giận tập thể như vậy, gan tôi có to
như gan voi cũng phải co vòi. Nhiều đêm dài
gác tuốt hai tay lên trán, nghĩ ngợi thật chán
chê, tôi phát hiện ra một chân lý đáng giá: người
ta phản đối ầm ầm chưa hẳn vì tôi
giở trò chơi bẩn, ngông nghênh phá bĩnh cái tinh thần
hiếu học thơm ngào ngạt của con cháu họ
mà rất có thể còn do ở số phận của
tôi chả thể nào… đè đầu vít cổ nổi
một ai!
Xem ra
tôi còn một hướng vớt vát: nghề thợ
may. Tôi cho là bất kỳ cô gái xinh xắn, thuỳ mị,
nết na nào khi nghe một chàng trai, trông bộ vó chẳng
đến nỗi ẹ, tự giới thiệu mình
làm nghề thợ may ắt nghe du dương ngọt
lịm hơn chán vạn chàng tự nhận mình chuyên
nghề… thợ húi!
Đang
phấn khởi vì tưởng mình đã tìm ra ánh sáng cuối
đường hầm bỗng nhiên tôi giật thót
người! Trời ơi là trời! Sao tôi lại lú
lẫn như vậy được hở tôi? Làm nghề
thợ may mà dám tưởng là hay ho lắm ư? Làm sao
tôi lại quên tiệt cái chuyện đã từng có
đến ba ông anh họ là thợ may ngon lành đột
nhiên biến ra… thợ rủi ngang xương chỉ
trong một ngày càn quét của lính Tây đen rạch mặt.
Cả ba cùng bị coi là du kích, bị bắt làm tù binh,
được “trao trả” năm 1953 rồi cuốn
thẳng một lèo không thấy quay về làng nữa.
Câu tục ngữ “chẳng chọn lối quang, đâm
quàng bụi rậm” nhất định người
đời đặt ra cốt để giải thích
ý định chọn nghề thợ may của tôi!
Ba ông
anh họ của tôi trở thành tù binh là cả ba tấm
gương tày liếp mà tôi phải luôn soi vào, mặc
dù lỗi gốc là do ở đầu óc lộn xộn
của đám Tây đen đi càn ngày ấy: Thợ may
thì chỉ biết cầm cây kim bé tí tẹo tì teo, ai
thèm ham làm gì chuyện cầm khẩu súng to đùng? Họ
quen chễm chệ kê bàn toạ của mình chỗ sạch
sẽ, lại giữ y phục tinh tươm cốt
sao cho ai nhìn đến đều thèm may ngay một bộ
y chang thì cớ làm sao họ lại chịu đâm sầm
vào ba cái vụ bò, lết, bươn, lội … cho đặng?
Đích thị là gặp phải Tây đen thì chớ
mong gì có vận đỏ, thợ may hoá ra "thợ
rủi" là chuyện cầm chắc. Tôi đành cáo lỗi
ông Tổ thợ may vậy. Tôi cụ thể hoá thái
độ nầy bằng hành động cụ thể:
Mỗi lần ông thợ may cạnh nhà cúng Tổ vào dịp
cuối năm, tôi bịa cớ tào lao nầy nọ
để đạp xe quanh quất, canh đúng giờ
cúng xong, bày bàn, so đũa, tôi tót về ngồi vào chỗ
cuối cùng và nâng ly kịp lúc.
Trong
tình hình như vậy, nghị định thành lập
Viện Hán Học Huế ra đời, tôi đọc
gần xong là nhào vào bám tòn teng đến đâu thì
đến, coi như đó là phao cứu sinh ném cho
người gặp “nạn nước”!
Diễn
đạt theo dạng phương trình, tôi có quyền
viết:
Vô kế
sinH nHai + cHữ ký >
Viện Hán Học Huế
hoặc:
V + 3H > VH3
(Các chữ vụn đi kèm, thực
chất chỉ làm xúc tác)
Giáo Sư Ngô Văn Lại 吳文赖老師
Việt
Nam, Tháng 01, 2013
* Sát na:
Từ ngữ
Phật giáo Ksana chỉ đơn vị đo thời
gian nhỏ nhất. Theo Hoa nghiêm thám huyền ký thì khi thực
hiện một cú búng ngón tay, người ta phải mất
lượng thời gian 60 sát na. Một cái nháy mắt
mất 40 sát na. Kinh Nhân vương Hộ quốc Bát
nhã chép rằng một ý niệm nảy sinh tốn thời
gian 90 sát na và qua mỗi sát na, trong ba nghìn đại
thiên thế giới trong vũ trụ này xảy ra 900 vụ
sinh ra và chết đi.
- Sở
Lục bình: Cơ quan
lưu trữ hồ sơ nghi can của ngành An
ninh.
- Danh
bản: Thẻ ghi tên tuổi, quê quán.
- Chỉ
bản: Thẻ lưu trữ dấu vân tay
|