
Làm con dân Khải Minh tất không ai không biết
Phật Cười (笑佛) chính là biệt hiệu kiêm bút hiệu
tự chọn của nhà văn, nhà giáo Lê Nguyên (黎元).
Những năm dạy
cùng trường với Lê tiên sinh tôi thường xuyên
nhận nụ cười đôn hậu ấy của
ông trong những lúc gặp nhau ở các cửa lớp
hay ở lối đi. “Cười” th́ rơ ràng là thế,
c̣n “Phật” ra sao th́ quả t́nh tôi chưa hề biết
được chút ǵ.
Gần đây,
nhân Từ Nguyệt Hoan gởi cho bài thơ “Khách Xá Độc Tọa” (客舍独座) của Phật Cười
được Hàn Quốc Trung đăng trên web nhà,
ngày 23/11/ 2007, tôi đă thích thú vận dụng “toàn bộ
công lực” của ḿnh để t́m hiểu tâm sự
của tác giả. Bài thơ ấy được chuyển
ra Việt ngữ như sau:
NGỒI MỘT M̀NH Ở KHÁCH SẠN
Sương pha thêm tóc vẫn
long đong,
Tắm ngựa bến
sông thẹn bụi hồng.
Đêm đến quạ
kêu trăng cổ thụ,
Thu về nhạn lạc
chốn không trung.
Hồn văn c̣n lại
ba phần giá,
Hơi kiếm gởi vào
một khói loang.
Độc ẩm rượu
ḥa cùng lệ tủi,
Món quê nếm lại vị
c̣n không?
Chúng ta thử tiến
vào ư tưởng của từng câu thơ để
t́m gặp lại tâm sự Phật Cười của
ngót nửa thế kỷ về trước.
Câu 1: “Sương pha thêm tóc vẫn
long đong”
Phật cười
bắt đầu bài thơ bằng cách tự đánh
giá bản thân khá nghiêm túc. Lư trí đă tách rời ông
để quay lại đánh giá t́nh cảm ông và bắt
gặp một thực trạng bi đát bằng tráng
chí hùng tâm vẫn chưa “bạc” mà tóc th́ cứ “bạc”
thêm măi.
Ngồi một
ḿnh ở khách sạn vào cái năm 1959 ấy, bấy giờ
có lẽ Phật Cười c̣n ở tuổi bốn mươi, tức là lứa tuổi c̣n có
thể cho phép người ta “lấy tương lai
để sửa sai quá khứ” thế nhưng đối
với ông, tương lai khá hư vô, một tuyệt
lộ cho những người có chí khí c̣n trong quá khứ
ông nếm trải đă nhiều gian nan khổ ải,
đă từng sống một tháng dài bằng cả một
năm, thế mà rốt cuộc vẫn long đong,
chưa được cuộc đời đền
đáp, đăi ngộ chút ǵ.
Câu 2: “Tắm ngựa bến
sông thẹn bụi hồng”
Không rơ Phật
Cười có lồng vào câu này điển cố ǵ
không, riêng tôi chỉ nhận thấy ở đây một
biểu tượng của sự bỏ cuộc.
Trong cả chặng
đời trai trẻ, Phật Cười đă phóng
lên phía trước thật hăm hở không tiếc ǵ sức ngựa, có
nghĩa là bao nhiêu hùng tâm tráng chí, ông đều dốc
ra cùng kiệt, “ngựa” đă nhuốm đầy bụi
đường nhưng ngó lại, long đong vẫn
hoàn long đong, ông bắt đầu tiếc cho những
tháng năm uổng phí, dừng lại để gột
rửa, làm sạch lại nhiệt t́nh của ḿnh.
Đấy là tâm
tư rất chung của lớp người đă từng
lập chí rồi thất chí, từng bị cuốn
vào ṿng xoáy của thời cuộc, bị choáng v́ Thế
chiến lẫn nội chiến (1939 - 1949) như Phật
Cười đă nếm trải.
(Về mặt xử
lư từ ngữ, có lẽ h́nh ảnh “tắm ngựa
bên cầu” (洗馬橋邊) của
Phật Cười có giá trị một bức tranh
đẹp, thế nhưng tôi cho rằng “tắm ngựa
bến sông” thực hơn, gợi cảm hơn v́ ở
“bến” quang cảnh thường vui nhộn hơn “cầu”,
nhất là khi cầu ở vào nơi heo hút quạnh vắng).
Câu 3: “Đêm đến quạ
kêu trăng cổ thụ”
Chuyện quạ
kêu trong trăng rơ ràng là chẳng thể nào xảy ra giữa
chốn Sài G̣n đô hội phồn hoa thời bấy
giờ. Thế nhưng trong chốn sâu thẳm của
một tâm hồn nghệ sĩ uyên bác như Phật
Cười, tiếng quạ ấy rất thật, vầng
trăng ấy không hề bị đèn đường
lấn át v́ chúng là những h́nh tượng nghệ thuật
từ cơi xa xăm vượt qua không gian hàng vạn dặm,
vượt qua thời gian hàng ngh́n năm để về
với tâm linh Phật Cười, kẻ đang độc
tọa nơi khách xá. Người yêu văn
chương ở mức b́nh thường nhất cũng
không thể không nhớ tiếng quạ kêu trăng ấy
cất lên trong bầu trời đầy sương ở
bến Phong Kiều (cầu Bàng) bên ngoài thành Cô Tô,
nơi nhà thơ Trương Kế đời
Đường đă ghé thuyền chờ sáng và để
lại cho đời mấy vần thơ bất hủ.
Nguyệt
lạc ô đề sương măn thiên
Giang
phong ngư hỏa đối sầu miên ...
(月落鳥啼霜滿天
江楓漁火對愁眠
張繼 - 楓橋夜泊)
Xin tạm dịch
hai câu thơ trên để tiện theo dơi tâm sự Phật
Cười.
Trăng
tàn, sương đậm, quạ kêu
Lửa
chài, bàng đỏ cùng khêu giấc sầu
Câu thơ của
Lê tiên sinh đă gợi lại “nguyệt lạc ô đề”
lẫn “giang phong”. Điều này không hề mang ư nghĩa
lợi dụng thi tứ mang “thương hiệu” của
Trương Kế mà chẳng qua ông chịu ảnh
hưởng của tinh thần Trung Quốc vốn coi
“tập cổ” là ưu điểm khi ông cùng cảm thấy
ḷng ḿnh man mác bâng khuâng như tâm trạng Trương Kế
(tôi ngờ ngợ rằng cái “khách xá” mà Phật Cười
đang “độc tọa” cũng ở kề bến
sông, cũng có những cây bàng cổ thụ um tùm lá
đỏ và chính màu lá ấy là động lực tạo
nên câu thơ tập cổ này).
Câu 4: Thu về nhạn lạc
chốn không trung
Ở đây,
chúng ta bắt gặp một ẩn dụ chứa hai
biểu tượng khá quen thuộc là mùa thu và chim nhạn.
Người ta
thường tính ṿng đời là trăm năm
nhưng trong tâm tưởng người ta thường
ước định khoảng 80 năm. Như vậy,
có thể ấn định mỗi “mùa tuổi” diễn
ra chừng 20 - 25 năm.
Các triết gia Ấn
Độ quan niệm mùa xuân của ṿng đời (→20
đến 25 tuổi) để yêu - mùa Hạ (→
40 tuổi - 50 tuổi) dành cho công danh sự nghiệp -
mùa thu (→ 60 - 75 tuổi) dành cho việc làm giàu - mùa
Đông c̣n lại dành cho bệnh tật, chết chóc (→
80 - 100 tuổi). Như vậy, sau tuổi 25 mới
yêu, sau tuổi 50 mới lo đỗ đạt, tranh cử,
lập đảng, .v.v. và sau tuổi 75 mới bôn ba sấp
ngửa để làm giàu, toàn là kiểu hành động…
trái mùa, trễ mùa.
Năm 1959 ấy,
Phật Cười ở giai đoạn tuổi 40 -
50 (như đă bàn ở câu 1). Ông có thể trẻ
hơn đi nữa th́ tâm trạng ông cũng đă già
dặn ngang lứa tuổi ấy. Các thi nhân văn nhân
đạt đến độ tuỏi 40 - 50 mới
thực thụ trở thành tác giả chín chắn của
mùa thu như Đào Tiềm đời Tấn (256 - 418)
Âu Dương Tu đời Tống (960 - 1296) ở
Trung Quốc hay Nguyễn Khuyến (1835 - 1910), Tản
Đà (1888 - 1939) ở Việt Nam đă để lại
những tác phẩm đặc sắc về mùa thu
chính là chịu sự tác động huyền bí của
“tuổi thu” ấy. Phật Cười chỉ nhắc
đến mùa thu chứ chưa đi sâu vào thu hứng,
thu cảm v́ bấy giờ thực t́nh th́ ông mới vừa
kết thúc xong ṿng tuổi xuân hè.
Biểu tượng
thứ hai là chim nhạn.
Trên thang giá trị
muôn loài, chim nhạn có vẻ chả đáng bàn. H́nh
như thiên hạ đă lầm! Sách kỷ lục
Guinness đă ghi nhận việc một máy bay thử
nghiệm của Ấn Độ đă chụp ảnh
một đàn nhạn bay ở tầm cao 17 km nghĩa
là vượt khỏi khí quyền 7 km! Điều
đó chứng tỏ rằng “bản lĩnh” loài nhạn
quá tầm nghiên cứu khoa học! Tùy theo t́nh h́nh khí
tượng, nhạn bay theo đội h́nh chữ Nhất
(一) hoặc chữ Nhân (人) và luôn tôn trọng khí động
học bằng cách chuyển đổi chỗ cho nhau
để đảm bảo độ bền sức.
Có lẽ chỉ loài nhạn mới được ngôn
ngữ dành cho hai chữ “nhạn trận” để
miêu tả cách bay di trú ấy. Thỉnh thoảng vẫn
có những con “lạc trận” v́ vô số lư do. Ai từng
là chiến binh bị đơn vị bỏ lại mới
thấm thía hai chữ “lạc trận” ấy và Phật
Cười lâm vào t́nh trạng tương tự khi
“độc tọa”, suy ngẫm về đời ḿnh.
Câu 5:
Hồn văn c̣n lại ba phần giá.
Theo lời kể
nhỏ giọt (h́nh như anh ta biết không nhiều)
của Huỳnh Khải Hưng th́ Phật Cười
từng là nhà báo chuyên nghiệp. Thời cuộc
đưa đẩy ông sang nghề giáo, ông đă
đánh mất rất nhiều, đúng là “mười
phần hết bảy c̣n ba” như lời sấm Trạng
Tŕnh. Có lẽ đang lúc tâm trạng kém thoải mái, ông
tự đánh giá hơi bi quan, chứ theo chỗ tôi biết
th́ học tṛ của nhà giáo Lê Nguyên không hề nghĩ về
ông như thế.
Câu 6: Hơi kiếm gởi vào
một khói loang
Kiếm và sách
(thư - kiếm) là hành trang của kẻ sĩ nhập
thế. Đây là mối tương quan giữa Tri và
Hành. Phật Cười thuộc thành phần sĩ phu
ấy. Ông có cơ hội bộc lộ phẩm chất
ấy của ḿnh hay không? Ông làm ǵ trong Thế chiến
thứ II và nội chiến Trung Quốc? Với tôi,
đấy là ẩn số. Tuy nhiên, nh́n làn khói thuốc
vẽ ngoằn ngoèo trong không gian mà h́nh dung ra kiếm
khí của ḿnh như thế, quả thật là tâm hồn
thi sĩ chân chính, và quả thật là tâm sự một
kẻ thất chí.
Câu 7: Độc ẩm rượu
ḥa cùng lệ tủi
Câu kết thứ
nhất đă gói trọn bốn câu 3 - 4 - 5 - 6, quả
là một câu kết đạt hiệu quả tối
đa! Quạ kêu, nhạn lạc, hồn văn mất
giá, hơi kiếm loăng tan, cả một nỗi niềm
chua chát ḥa vào chung rượu năo nề. Cái cô
đơn c̣n hùa vào làm ông xót xa cho đời ḿnh hơn
nữa. Hoài băo không thực hiện được
đă là chuyện nặng nề cho tâm sự rồi tâm
sự không biết ngỏ cùng ai lại làm tủi thân
hơn. Có lẽ chưa lúc nào Phật Cười buồn
nhiều bằng cuộc độc tọa đó.
Câu 8: Món quê nếm lại vị
c̣n không?
Trong nguyên tác, câu
này của Phật Cười nhằm nói lên nỗi xót
xa về một quê hương chỉ c̣n trong kư ức
và ông tha thiết mong có một ngày về lại. Tôi
nghi là “nền công nghiệp không khói” ngày nay đă
đáp ứng từ lâu và ông đă tha hồ nếm lại
những món ông ưa thích nhưng ông không t́m lại
được cái khóai chá của Trương Hàn đời
Tấn v́ vô số trở ngại:
- Hoặc là món quê
ấy đă thất truyền, không c̣n ai nhớ và
thích.
- Hoặc là món quê ấy vẫn c̣n
nhưng vật liệu kém chất lượng, chế
biến không hợp khẩu vị bằng món xưa.
- Hoặc là vị
giác của ông đă hết tinh tế.
Tóm lại, điều
ao ước của ông là vô vọng. Qui luật cuộc
đời đă được mă số De Noailles
đúc kết “không bao giờ t́m lại được
tâm hồn chiều nay của ta!”
*
* *
Trong dịp xuân về,
bỗng dưng ḷng tôi hướng đến Phật
Cười bằng những ư nghĩ riêng tư như
thế. Bóng dáng Phật Cười với vầng trán
cao, đôi mắt to nh́n thẳng đầy tin cậy,
khuôn mặt gầy và khô, phong thái nhanh nhẹn, tất
cả hiện lại thật sắc nét trong trí tôi lúc
này.
Hồn thiêng Phật
Cười ơi! Xin thông cảm cho sự b́nh phẩm
đường đột của Chi Nhất này nhé!
Chi Nhất 之一
01.01.2008, Việt
Nam
|