MẤY D̉NG
TÂM SỰ
Tôi cảm
thấy ḿnh mắc nợ với ĐỜI nếu
không cố gắng viết nên tập sách nhỏ này.
Nền
văn minh nhân loại đă công nhận luật
Vạn vật hấp dẫn, luật Bảo toàn
năng lượng cùng nhiều luật khác nhưng
Luật Hằng tại có lẽ chỉ mới
được đề cập lần đầu.
Tuy nhiên, đây chỉ là chuyện “b́nh mới
rượu cũ” v́ nó chỉ là “con đẻ chưa
khai sinh” của hai luật vừa kể trên.
Nhà Toán
học người Pháp Le Verrier (1811-1877) đă tính toán
ra vị trí Hải vương tinh trong vũ trụ
nhờ luật Vạn vật hấp dẫn của
Newton (1642 - 1727) th́ luật Hằng tại của
vũ trụ biết đâu sẽ có thể giúp
nhiều nhà nghiên cứu khác suy gẫm khám phá
được nhiều điều về chân lư,
về đạo đức để vén bức màn vô
minh quá đỗi bao la che phủ trí tuệ ḿnh, giúp con
người sống tốt hơn cho Đời và cho
Ḿnh th́ đáng hi vọng biết bao nhiêu.
Đà Nẵng, 2015
Người biên soạn
LỜI NÓI ĐẦU
Tập sách nhỏ nhoi nầy
đến tay độc giả trong điều
kiện hoàn toàn mạo hiểm khi kẻ biên soạn nó
đă chấp nhận cảnh ngộ khiếm thị
và Viện Mắt ở Đà Nẵng đă tuyên bố
bỏ cuộc hồi tháng 6.2012. Soạn giả
đành chỉ biết phóng bút theo quán tính và vận
dụng tri thức tích lũy trong quá khứ mà không
thể tham khảo tư liệu hoặc đọc
lại những ǵ ḿnh đă viết, nghĩa là khó ḷng
“nối mạch” cho ổn thỏa giữa hai
đợt cầm bút. Nói cụ thể như vậy
để xin lỗi độc giả trước khi
đọc pḥng khi bắt gặp những phần có
vẻ trùng lặp hay đứt quăng, lạc ư. (May thay
ngót nửa năm, thị lực được
phục hồi).
Nghiên cứu vũ trụ, Isaac Newton
(1642 - 1727) đă khám phá ra Luật hấp dẫn,
thuyết phục tối đa nhân loại, chưa ai
dám phản biện. Luật Hằng tại được
công bố lúc này có lẽ đă quá trễ, lại va
phải bức thành đồng của tín
ngưỡng tôn giáo khi người ta coi “con
người chỉ là cát bụi, sẽ trở về
với cát bụi”, coi vạn vật chỉ là “không
sinh sắc, sắc hóa không” chả có ǵ là hằng
tại cả.
Người biên soạn tập sách
nhỏ nhoi này đă đánh mất hơn nửa
thế kỷ của đời ḿnh để chiêm nghiệm
các chân lư trên nhưng từ khi đọc thấy câu
“chúng sinh vô minh, gây bao nghiệp ác để phải
chịu đựng quả báo triền miên …”. Tôi
nhớ mang máng đấy là lời Phật dạy
nhưng giờ đây không thể kiểm tra
độ chính xác của câu chữ cùng xuất xứ
cụ thể của chúng. Tôi chỉ nắm
được chân lư then chốt là “chúng sinh vô minh”.
Trong một thời gian khá dài, tôi cảm thấy khó
thể tiêu hóa nổi cụm từ có vẻ miệt
thị ấy, măi đến khi vượt tuổi 70
của đời ḿnh, tôi mới thực sự tâm
phục khẩu phục lời nhận định
đầy ư phê phán của vị giáo chủ uyên bác
lừng lẫy ấy.
Nh́n vào lịch sử, dù là thứ
lịch sử biên niên sơ sài, ta cũng thấy có
điều đáng suy nghĩ: Lư Công Uẩn (Thái
Tổ) đi tu Phật giáo để lập ra nhà Lư
th́ cuối cùng Lư Đạo Sảm (Huệ Tông)
lại đi tu Đạo giáo để kết thúc nhà
Lư. Kẻ lên ngôi nhờ vào thủ đoạn tàn
độc, th́ kẻ nối ngôi lại vướng
vào thủ đoạn ấy, khó có thể bảo
đấy là hai trường hợp ngẫu nhiên và
biệt lập, chả liên quan ǵ nhau, khi thử vén
bức màn “vô minh” đang che phủ trí tuệ ḿnh.
Tập sách nhỏ này tuy khoác cái tên hơi
mới nhưng nó chứa đựng hai luồng
tư tưởng lâu đời Phật giáo và Nho giáo,
tức là theo cách “tập đại thành” của
Khổng Tử đă dùng.
Với Khổng Tử (551 - 479 tr CN)
th́ việc “tập” của ông nhằm vào các vua Nghiêu,
Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ và trong lúc chăm chỉ
“tập” họ ông không quên luồn vào đấy tư
tưởng của bản thân. Ngoài Khổng Tử c̣n
có bao nhiêu “Tử” khác như Mạnh Tử, Tăng
Tử, Tử Cống, Tử Dư, Tử Hăn, Tử
Tư, v.v…cần cù bổ sung vốn liếng trí
tuệ của họ qua thời gian. Tính đến
thời Tống, khi các nhà phục hưng Nho học
(phái Tống nho) như Tŕnh Di, Tŕnh Hạo, Chu Hi, Trương Tải (học tṛ
vị này c̣n đông đảo hơn con số 3.000
của Khổng Tử!). Như vậy nền Nho
học được vun đắp lâu dài ngót 1.500 năm,
tư tưởng ấy trộn lẫn không ít
phần đóng góp của trí tuệ dân gian. Phật
giáo và Nho giáo đă ảnh hưởng qua lại trong
quá tŕnh truyền thụ, mặt khác giới tăng
sĩ với nho sĩ mọi thời, mọi nơi
vốn thường đi lại thân thiết,
xướng họa tâm đắc không ít. Ngoài các
học giả trên, sách Minh Tâm Bảo Giám
được dùng để viện dẫn cho tư tưởng
nho giáo ở đây.
Những câu trích thẳng từ sách
trên, thực chất là của cá nhân Phạm Lập
Bản, học giả đời Minh và có lẽ tư
tưởng chứa đựng trong những câu đó
được đúc kết từ trí tuệ
những người đi trước ḿnh nên Phạm
Lập Bản không dám coi là hoàn toàn của ḿnh.
Trước khi Nho học phổ
biến, nền học thuật của Trung Quốc
đă trải qua thời kỳ trăm hoa đua
nở, đó là thời kỳ “bách gia chư tử” (hàng
trăm nhà lập thuyết) ồ ạt xuất
hiện vào thời Xuân Thu. Chẳng hạn khi bàn
về Tính người, Mạnh Tử chủ
trương thuyết Tính Thiện cho rằng “lúc
mới sinh, con người vốn thiện như nhau
nhưng rồi tập quán làm cho họ xa nhau, nếu
không dạy dỗ, tính ấy sẽ dời đổi”
(Nhân chi sơ, tính bản thiện. Tính tương
cận, tập tương viễn, cẩu bất
giáo, tính năi thiên -– Tam tự kinh).
Như vậy chính môi trường
sinh nhai khiến người ta xa rời tính gốc,
chẳng hạn, kẻ làm lính có thể trở thành tàn
nhẫn, hung ác, thô bạo, kẻ tu hành có thể trở
nên hiền hậu, điềm đạm, ḥa nhă.
Cùng thời Mạnh Tử, có Tuân
Tử lập thuyết ngược lại. Ông cho
bản tính con người vốn “Ác”, nếu không
dạy dỗ th́ khó thể trừ bỏ cái Ác
để trở thành người Thiện
được. Quan sát những đứa trẻ
hiếu động, lêu lổng ta dễ dàng nhận ra
thuyết “nhân chi sơ, tính bản Ác” nghe có vẻ
thuyết phục hơn.
Chẳng hạn quan sát một
đứa trẻ c̣n chưa biết đi, biết
nói, vớ được cái ǵ trổ tài gây Ác,
giật đuôi chó, bẻ chân chim, vặt cánh chuồn
chuồn, v.v… Lớn hơn, biết chạy nhảy
th́ ném đá vào cửa sổ tàu đang chạy,
sẵn sàng tham gia phá xóm, phá làng, băng này băng khác,
v.v…
Một “Tử” khác là Cáo Tử
phản biện cả hai “Tử” trên, chủ
trương rằng ‘Tính người như ḍng
nước chảy, khơi sang Đông, chảy sang
Đông, khơi sang Tây, chảy sang Tây…” (Tính do thoan
thủy dă, khoái chư Đông tắc chi ư Đông,
khoái chư Tây tắc chi ư Tây…)
Trước quang cảnh “loạn
Tử” kéo dài ngót năm trăm năm như thế,
đến đời Hán, có Đổng Trọng
Thư dâng lên vua Hán phương án “Thiên nhân tam sách”
đề xuất chủ trương “độc tôn
nho học, cự tuyệt bách gia” mở ra thời
kỳ Nho giáo phát triển, chi phối cuộc sống
lâu dài mang tính Hằng tại hơn mọi nền
tư tưởng khác trong lịch sử loài
người.
★
Phải đến tuổi tám
mươi của đời ḿnh, sau nhiều chục
năm đọc sách, quan sát, kiểm nghiệm và
nhất là trầm tư trong nhiều đêm không ngủ,
tôi mạo muội bàn về những điều nêu
trên trong tập sách này với ḷng hi vọng thiết
tha sẽ đến tay những tâm hồn đồng
thanh khí.
Đà
Nẵng, 2015
Soạn
giả.
★
PHẦN
THỨ NHẤT
LUẬT HẰNG TẠI LÀ G̀ ?
Hằng tại có nghĩa là tồn
tại măi măi. Các Hằng đẳng thức đáng
nhớ trong Toán học như {(a + b)2 = a2 + b2
+ 2ab; (a - b)2 = a2 + b2 - 2ab)} hay
sự xuất hiện theo chu kỳ cố định
của sao chổi Halley trong Thiên văn học là
những dạng hằng tại cụ thể
nhất. Đấy là sự hằng tại cứng.
Hằng tại cứng chiếm tỉ số không
đáng kể so với hằng tại mềm,
đối tượng chủ yếu của tập
sách nhỏ nầy. Hằng tại mềm uyển
chuyển, biến hóa, mang tính cách chất lỏng, luôn
thay đổi h́nh dạng thiên biến vạn hóa nên
cũng có thể coi là Hằng tại lỏng, (phân
biệt với Hằng tại cứng tức Hằng
tại rắn). Kẻ
thiếu tŕnh độ suy nghiệm không tài nào nhận
ra Hằng tại lỏng, ngay cả những
người chịu tác động trực tiếp.
Chẳng hạn một kẻ làm điều ác
nhưng bản lĩnh có thừa, đầy
đủ mưu ma chước quỷ ém nhẹm tài
t́nh, bít lối cả mọi hướng điều
tra, truy tố, bịt miệng cả nhân chứng trung
thực nhất, quan ṭa nghiêm khắc nhất. Kẻ
ấy đầy đủ t́nh tiết ngoại
phạm khiến dư luận cũng bó tay, coi y là
người vô tội một cách tâm phục khẩu
phục. Tội ác y gây ra rốt cuộc chỉ
mỗi một ḿnh y biết, c̣n với thiên hạ, y là
kẻ vô tội trong tư thế ngẩng cao
đầu. Như vậy, mọi biện pháp của
người đời không thể nào đụng
tới bản thân y, nhưng “lưới trời
lồng lộng”, việc y làm chịu ảnh
hưởng của luật Hằng tại và những
ǵ xảy ra cho cuộc đời c̣n lại của y,
chứa chắc chắn số h́nh phạt nhất
định nào đó, bản thân y có thể cảm
nhận hoặc chối bỏ, nhưng sự báo
ứng vẫn thầm lặng diễn ra theo sự chi
phối siêu h́nh của luật Hằng tại,
thậm chí uy lực của luật nọ lắm lúc
c̣n gây liên lụy cho người thân thuộc liên quan.
Theo giáo điều nhà Phật th́ sự báo ứng
thiện ác của Nghiệp đưa lại (quả
báo) có thể xảy ra trong nhiều kiếp, c̣n Nho gia
lại quan niệm ṣng phẳng hơn coi việc báo
ứng là chuyện nhăn tiền, những hành vi
thiện ác đều được trả giá ở
một thời điểm nào đó do Trời
Đất cân nhắc. Javaharlal Nehru (1889-1964) có nhận
định mang tính tổng hợp hai nguồn giáo
điều ấy bằng câu nói bất hủ: “Ngoài ta
ra, không ai hại ta được”, có nghĩa là ḿnh
làm ḿnh chịu, dù kẻ khác có làm khiến ḿnh chịu
lây th́ xét cho cùng cũng do chính ḿnh thiếu cẩn
trọng, kém đắn đo. Rơi xuống vực
sâu th́ chẳng nên quy tội cho vực sâu mà phải
thành thật nhận ḿnh đi đứng bất
cẩn. Khi bị kẻ khác lừa gạt gây thiệt
hại lớn th́ phải tỉnh táo nhận ra
những mồi nhử, những thủ đoạn
ranh ma của kẻ lừa gạt trước khi tin
tưởng vô điều kiện về những món
lợi ảo kết sù được hứa sắp
có. Trong kinh nghiệm sống, lắm lúc kẻ ác
gặp may, người thiện gặp rủi
khiến người ta cho là Trời không có mắt,
nhưng thực ra đối với một con
người chuyện thiện ác nằm chung trong
chiều dài thời gian, chỉ tới cuối
đời hoặc kiếp sau (tùy theo quan niệm tín
ngưỡng nho gia hay phật giáo) mới có sự báo
ứng thích đáng. Nho gia gọi đó là lúc “thiện
ác đáo đầu” tương đương như
câu nói vui của dân gian “chuột chạy cùng sào”.
Những dịp may hay rủi nằm trong chuỗi
sự kiện một đời sẽ
được luật Hằng tại âm thầm ghi
nhận, âm ỉ tiến hành trừng phạt, dù
kẻ sống suốt đời cũng chưa
dễ nhận ra, giống như phần khuất
của mặt trăng, hàng ngh́n đời thiên hạ
chỉ biết đến Hằng Nga, cung quảng,
thằng Cuội, cây đa … không mảy may biết
đến phần khuất ấy măi đến khi
nhân loại sáng chế ra máy móc khám phá vũ trụ dùng
trong các vệ tinh. Có lẽ nhiều ngh́n đời
sắp tới nhân loại cũng vẫn vô tư vô
cảm trước sự vận động âm
thầm ấy của luật Hằng tại. Hiểu
được luật Hằng tại, người ta
sẽ dè chừng trong mọi hành vi thiếu suy nghĩ
của ḿnh, không giữ cho ḿnh những bí mật riêng
tư, hí hửng đắc ư rằng thiên hạ mù
tịt chẳng ai biết nổi, điều bí
mật của ḿnh tất không tài nào bị luật
Hằng tại xử lư cho nổi.
Một số giáo điều
của Nho học cũng măi măi gắn bó với
đạo lư ở đời, đấy cũng là
một kiểu hằng tại, dù không ít người
chê bai chúng lạc hậu lỗi thời, phi khoa
học, phản văn minh. Tuy nhiên, sẽ có những
lúc ngay đến kẻ chê bai mỉa mainhất
cũng mặc nhiên hành động theo kẻ bị chê
bai, chẳng hạn người ta có thể phê phán
hủ tục bảo vệ tiết hạnh là ḱm hăm
sự tự do của nữ giới, thế nhưng
nếu con gái những kẻ chỉ trích ấy
sống buông thả, kết bạn bừa băi, lêu
lổng suốt đêm, tham gia những sinh hoạt
nhạy cảm không được phép người
lớn trong gia đ́nh, đương nhiên họ
sẽ dùng những giáo điều nho giáo để
răn đe mà bản thân họ quên bẵng rằng
chính ḿnh đă từng mỉa mai chỉ trích mạnh
mẽ những giáo điều ấy.
Tính ra tư tưởng Khổng
Tử, tức tư tưởng Nho giáo đă xuất
hiện ngót 2.500 năm nhưng ảnh hưởng
của nó không hề hao ṃn dù hàng tỉ dân Trung Quốc
đă có thời rầm rộ, ráo riết “phê Lâm, phê
Khổng” cốt để thủ tiêu triệt
để tư tưởng Khổng Tử. Thế
nhưng, sau bao nhiêu hỗn loạn, tiêu diệt nhau
một cách mù quáng, đặc biệt nhắm vào
giới trí thức tự do (điển h́nh như
trường hợp vợ chồng giáo sư Ngô Hàm)
nhưng rồi măi đến gần đây vũ
trụ đă dần xuất hiện t́nh h́nh “nước
chảy đá bày” những ư đồ bạo liệt
nhất thời nọ đă lụi tàn cho những giá
trị Hằng tại nhô lên, lác đác đâu đó
một vài nền điện ảnh Châu Á đă xây
dựng nhiều bộ phim dựa trên nền tư
tưởng Hằng tại ấy và một số phim
ảnh Âu Mĩ có vẻ như bắt đầu thấm
nhuần ảnh hưởng.
PHẦN
THỨ HAI
NHO GIÁO, NHO HỌC,
NHO GIA, NHO SĨ
Tất cả các từ trên
đều chỉ định chung một gốc,
đấy là Nho học.
Trước đây, trẻ con đi
học chữ Hán thường gọi là học
chữ Nho, tất cả nhân viên văn pḥng ở
mọi công đường phủ huyện, bút lông cài mép
tai thoăn thoắt qua lại, hí hoáy biên chép,
được thiên hạ gọi là thầy nho. Như
vậy, Nho là ǵ ?
Theo phép lục thư của văn
tự biểu ư Trung Quốc, chữ Nho (儒)
được cấu tạo bằng hai phần:
Phần bên trái là bộ Nhân (人), có
nghĩa là người (nhân chủng, nhân gian, nhân
thế, nhân lực, v.v…). Phần bên phải là chữ
Nhu (需) có
nghĩa là cần thiết (nhu cầu, nhu yếu, quân
nhu…). Phần này vừa mang tính hài thanh (nhu -> nho)
vừa mang tính hội ư. Như vậy, Nho là
đạo lư cần thiết cho con người,
chừng nào con người c̣n tồn tại th́ c̣n
cần đến thứ đạo lư Hằng tại
ấy, dù tán thành hay phản bác. Lịch sử
nhiều nước châu Á đều biết ơn sâu
sắc những phần tử nho gia tích cực mà
người đời gọi chung là giới sĩ
phu. Giới ấy đă tạo nên vô số
điểm son rạng rỡ trong lời lẽ
lẫn hành động.
Trong việc nói năng bàn luận,
người ta thường sử dụng lẫn
lộn khái niệm nho học với nho giáo, có lẽ
trong ư nghĩ người ta coi những người
đeo đuổi nho học thường rất tuân
thủ những giáo điều của học phái
ấy, biến sự tuân thủ ấy thành h́nh
thức sùng kính tuyệt đối, tự coi như
tín đồ của một giáo chủ chí tôn. Kỳ
thực dù các thành viên ấy có sùng kính đến
bậc nào th́ bản thân các nho sĩ cũng chỉ là
những thành viên tán thành chân lư chứ không phải tín
đồ có tổ chức, có phẩm chất, có
đồng phục, có đeo phù hiệu, có sinh
hoạt thường kỳ như các tín đồ tôn
giáo chính thức. Thành thử khi nói nho giáo, phật giáo,
lăo giáo là ba tôn giáo quốc gia (như trong các cuộc thi
tam giáo đời Lư) là cách diễn đạt chưa
chuẩn xác, bởi nho giáo ở đây chỉ có
nghĩa là những ǵ được giáo dục qua nho
học chứ không phải là một tôn giáo có tập
tục tu tŕ, ăn chay, kiêng thịt, v.v…
Dưới đây là những tri
thức nhập môn cần biết về Nho học.
PHẦN
THỨ BA
CHÚT TRI THỨC TỐI THIỂU
VỀ
VŨ TRỤ QUAN NHO HỌC
I./ THÁI
CỰC:
Thái cực có nghĩa là lớn
cực độ. Nho gia dùng cách gọi đó cho vũ
trụ. Nó lớn đến nỗi không ǵ ở ngoài
nó được (kỳ đại vô ngoại).
Đồng thời nó cũng hiện diện tận
cái nhỏ nhất đến nỗi không c̣n chỗ cho
cái khác tồn tại trong cái nhỏ đó (kỳ
tiểu vô nội) thành thử bên trong các hạt vật
lư (proton, electron, neutron…) cũng là vũ trụ.
Thân xác con người cũng là
“tiểu vũ trụ”. Cái “tiểu vũ trụ” này
cũng ḥa hợp với “đại vũ trụ”,
thành thử ḷng người cũng ḥa hợp với
ngoại cảnh.
Người buồn cảnh có vui
đâu bao giờ ? (Kiều)
Khoa đông y cũng đặt
nền tảng ấy vào việc miêu tả bệnh
chứng (hàn, thấp, nhiệt, v.v…) và sử dụng
dược liệu theo xu hướng ấy. Chẳng
hạn, người ta dùng rễ, củ trị
bệnh phần dưới cơ thể, hạt, lá,
vỏ cây trị phần trên cơ thể.
Người ta cũng lấy nội tạng các loài để
bồi bổ cho sức khỏe phủ tạng con
người.
Sách Từ nguyên định nghĩa:
Trên, dưới, bốn
phương là Vũ
Xưa qua, nay đến
là Trụ
Như vậy, vũ trụ là
gồm cả không gian vô hạn và thời gian vô cùng.
Thực ra sơ đồ trên
chỉ giả thiết vũ trụ hai chiều, trong
khi phải miêu tả nó theo không gian ba chiều,
nghĩa là trông nó giống chiếc b́nh cầu trong pḥng
thí nghiệm, tuy đến thời điểm này nhân
loại đă quan sát hàng tỉ năm ánh sáng. Có thể
nói vũ trụ chiếm vô số chiều trong không
gian và thời gian. Tóm lại, vũ trụ là vô
hạn, vô biên trong không gian và vô thủy, vô chung trong
thời gian, con người không tài nào h́nh dung cụ
thể nổi. Chẳng hạn khoa thiên văn học
đă quan sát vũ trụ có đến hàng triệu
thiên hà, và mỗi thiên hà ấy lại có hàng triệu
nhật cầu (mặt trời + các tinh cầu), mỗi
nhật cầu quy tụ hàng triệu tinh cầu mà
bản thân mặt trời đă
có
đường kính
1.400.000 km c̣n tinh cầu lớn nhất trong vũ
trụ đă được quan sát đến lúc này
lại có đường kính dài gấp 2.000 lần
mặt trời, đến nỗi người ta
đă tính toán rằng một máy bay dân dụng muốn
bay giáp ṿng theo đường xích đạo của
tinh cầu siêu đại ấy phải mất …1.200
năm ! C̣n sự vô tận của thời gian cũng
hoành tráng không kém, gần đây giới khảo cổ
học đă t́m ra hóa thạch của một chú rùa
tồn tại 235 triệu năm tuổi ! Thử h́nh
dung một con người cùng tuổi với chú rùa
nọ th́ đến nay người ấy đă là
cụ tổ…siêu cao đến 7.833.333 đời
của thế hệ hôm nay (tạm tính theo phả
hệ biên niên lâu đời nhất của nhà
Khổng Tử).
II./ LƯỠNG NGHI:
Theo nho gia, cái thái cực siêu
đại trên đây chỉ hiện diện trong ư
thức, chưa ai phối kiểm với thực
tế, nhưng người ta đă phân biệt hai
yếu tố cơ bản của Thái cực (tức
vũ trụ) là Thái Âm và Thái Dương, gọi chung là
Lưỡng nghi (H́nh 2).
H2:
Lưỡng nghi
Lưỡng nghi luôn luôn giữ
thế cân bằng, đắp đổi nhau, nhường
nhịn nhau trong thời gian và không gian. Đang lúc
Dương thịnh th́ Âm suy. Đang lúc Âm thịnh th́
Dương suy. Kinh nghiệm dân gian cũng nêu rơ
điều đó “ngày tháng 10 chưa cười đă
tối -– Đêm tháng 5 chưa nằm đă sáng”.
Với không gian cũng vậy,
chỉ riêng đất nước Chile, phía cực nam
có lượng mưa cao nhất thế giới
(gần 10m/năm), c̣n ở phía cực bắc lại
đứng đầu thế giới về khô hạn
(b́nh quân 1mm/năm).
Tôi cho rằng người ta có
thể làm một thí nghiệm trực quan về
Lưỡng nghi bằng cách đổ vào b́nh cầu
thủy tinh trong suốt hai chất lỏng, nửa
b́nh cầu là dầu hỏa tượng trưng cho
Dương, nửa b́nh c̣n lại là phần lỏng
ḥa màu nhạt (để dễ quan sát) tượng
trưng cho Âm. Lắc mạnh b́nh cầu nọ, ta có
một khái niệm về sự vận hành của
Lưỡng nghi trong vũ trụ. Nh́n kỹ chất
lỏng trong b́nh cầu, người ta thấy chúng
như hai con bạch tuộc không mắt vô cùng dị
dạng khác màu có vô số xúc tu đủ mọi h́nh
thù, đủ mọi kích cỡ, tùy tiện đàn
hồi, ôm khít nhau không chừa khe hở. Sự ôm khít
và đàn hồi ấy biểu kiến sự thịnh
suy của âm dương. Tôi cho rằng ở
đời chẳng mấy ai có quan niệm đúng
đắn, đầy đủ về độ cân
bằng của Lưỡng nghi. Thường
người ta chỉ nhận những ǵ thuộc
về Dương mà phủ nhận vai tṛ của Âm,
bởi lẽ “âm thầm” và “âm ỉ” th́ chỉ bị
phát hiện sau khi bị tác hại cụ thể, hay
được nhận ra từ những trí tuệ
kiệt xuất. Theo nhân định sơ khởi
của giới bác học th́ tính đến thiên niên
kỷ thứ ba này nhân loại đă khám phá ra rằng
Lưỡng nghi không phải là hai yếu tố
tương đương nhau mà chênh nhau theo tỉ
lệ Âm 95, Dương 5, tức là nhân loại chỉ
đủ sức xử lư tối đa 5% chuyện
đời và chấp nhận 95% vô minh, chỉ biết
cam chịu thụ động hoàn toàn ngẫu nhiên mà
thôi.
Đối với nho gia, tác
động của Âm “chậm mà chắc” (Âm pháp tŕ nhi
bất lậu - Minh Tâm Bảo Giám -Tĩnh tâm). Chỉ
khi nào cái Tâm thực sự yên tĩnh người ta
mới nhận ra mănh lực của yếu tố Âm.
Trong cuộc sống, con người choáng ngợp
với sức phô triển rầm rộ trước
mắt hàng ngày của cái Dương, con người
chả c̣n thời giờ đâu để quay lại
ngó chừng cái Âm lặng lẽ mơ hồ ở sau
lưng trong bóng đêm tĩnh mịch. Nhiều kẻ
đang quay cuồng trong vực xoáy của “Âm pháp tŕ
nhi bất lậu” ấy nhưng vẫn không hề hay
biết, không chút ăn năn, trái lại c̣n tự
tiếp tục mù quáng làm cho ḿnh phải trả giá
nhiều thêm, Hitler của chủ nghĩa phát xít
Đức hăm hở ráo riết tiêu diệt chủng
tộc Do Thái trên lănh thổ ḿnh chiếm đóng, là
một ví dụ tiêu biểu cho t́nh trạng ấy trong
lịch sử cận đại.
II./ TỨ TƯỢNG
Thái cực phân ra Lưỡng nghi,
rồi đến lượt Lưỡng nghi phân ra
Tứ tượng gồm Thái Âm, Thiếu Âm, Thái
Dương và Thiếu Dương (H.3).
H3:
Tứ tượng
a:
Thiếu Dương - B: Thái Âm
B:
Thiếu Âm –- B’: Thái Dương
Trong biểu đồ, Thái Âm
biểu thị bằng h́nh con cá đen không vây, đuôi
nhọn, có mắt trắng (Thiếu Dương), c̣n
Thái Dương biểu thị bằng h́nh tương
tự nhưng mắt đen (biểu thị cho
Thiếu Âm).
Hàm nghĩa của biểu
đồ về Tứ tượng như sau:
Âm và Dương của Lưỡng
nghi diễn biến hoàn toàn tự nhiên, nhịp
độ nhanh chậm tùy tiện. Chỗ nhọn
của h́nh cá đen là Thiếu Âm, khi diễn tiến đến
chỗ ph́nh to nhất chỗ “đầu cá” th́ bắt
đầu h́nh thành Thái Âm (Âm lớn). Đúng lúc đó,
trong Thái Âm sinh ra “mắt trắng” của cá,
tượng trưng cho Thiếu Dương
(Dương bé). Thiếu Dương biểu thị
bằng “mắt trắng” của h́nh cá đen, lại
vừa biểu thị bằng “đuôi nhọn”
của cá trắng. Khi Thiếu Dương ấy
diễn biến tột độ th́ bắt đầu
trở thành Thái Dương và lúc nó ph́nh to nhất th́
sinh ra Thiếu Âm (Âm bé) biểu thị bằng “mắt
đen” của cá trắng, đồng thời cùng
biểu thị “đuôi nhọn” của cá đen.
Sự vận hành của vũ
trụ cứ luân lưu đắp đổi như
thế măi. Trong sơ đồ thuyết minh kể
trên, giả thuyết vũ trụ hai chiều và âm
dương cân nhau tuyệt đối, nhưng trong
vũ trụ ba chiều th́ âm dương phát triển
tùy tiện như đă nói trong phần Lưỡng
nghi. Điều rất đáng ngạc nhiên là theo công
bố gần đây của giới bác học vật
lư vũ trụ th́ Âm và Dương có tỉ số cực
chênh lệch. Giới ấy cho rằng 95% vật
chất trong vũ trụ ch́m trong bóng tối, chỉ
có 5% vật chất có mặt trong ánh sáng. Thế
giới vật chất đă như vậy th́ có
lẽ thế giới phi vật chất cũng không
kém cạnh, có nghĩa là âm lấn át đến 95%, c̣n
Dương chỉ giữ chỗ có 5% ít ỏi trong
vũ trụ (không rơ các vị ấy tính toán chắc
lép ra sao mà đưa ra đáp số quá ư kinh
khủng ! Thử h́nh dung một kẻ nào đó
đắc tội với đời, Dương pháp
kết án 5 năm, rồi Âm pháp “chồng” án thêm lên…95
năm th́ sức đâu mà chịu ? Liệu có một
chúng sinh nào thoát khỏi t́nh trạng “vô minh” để
biết khiếp vía về mức đền tội
kinh khủng đến thế không?).
III./BÁT QUÁI
Tứ
tượng sinh ra Bát quái. (H4)
H4: Bát
quái
Bát quái là tám quẻ. Tên gọi
mỗi quẻ là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn,
Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Tám quẻ (Bát quái) kể trên lại
ghép theo từng cặp một chồng lên nhau
để tạo ra 64 quẻ mới (8x8). Người
ta dùng chúng để giải mă mọi việc trên đời.
Cách làm đó được gọi là bói quẻ
Dịch.
Các quẻ của Bát quái
được phân biệt bằng những vạch
liền và vạch đứt. Để phân biệt
các quẻ, người ta minh họa bằng mấy
câu thơ:
Càn tam
liên,
Khôn
lục đoạn
Chấn
ngưỡng bồn
Cấn
phúc oản
Ly
trung hư
Khảm
trung măn
Đoài
thượng khuyết
Tốn
hạ đoạn
(Quẻ
Càn có ba vạch liền
Khôn có
sáu đoạn đứt
Chấn
giống chậu để ngữa (vạch liền dưới
hai vạch đứt)
Cấn
như chén úp (vạch liền nằm trên hai vạch
đứt)
Ly
rỗng ở giữa (vạch đứt nằm
ở giữa hai vạch liền)
Khảm
đầy ở giữa (vạch liền nằm
ở giữa hai vạch đứt).
Quẻ
Đoài khuyết ở trên (vạch đứt nằm
trên hai vạch liền)
Quẻ
Tốn đứt phía dưới (vạch đứt
nằm dưới hai vạch liền)
Các quẻ ấy tượng
trưng cho mọi hiện tượng trong vũ tru
hoặc một vị trí, một đối
tượng, v.v... Kinh Dịch chỉ rất rơ vai tṛ
các quẻ, ví dụ như quẻ Càn và Khôn ứng vào
Trời và Đất, chúng cũng ứng vào Cha và
Mẹ. Quẻ Chấn ứng vào con trai trưởng
(người ta đặt tên thường đệm
chữ Bá hay chữ Mạnh), quẻ Khảm ứng
vào con trai giữa (đặt tên thường kèm theo
chữ Trọng hay Thúc), quẻ Cấn ứng vào con
trai út (khi đặt tên thường kèm theo chữ
Quư). Các quẻ khác hoặc ứng vào núi, sông hoặc
anh trai, chị gái, v.v…. Người ta lại chồng
lên nhau để lập ra 64 quẻ phức. Bói
Dịch là dựa vào bấy nhiêu quẻ để xác
định may rủi, thành bại. Theo Đào Trinh
Nhất th́ Phan Đ́nh Phùng đă nhờ biệt tài bói
Dịch mà biết trước mọi diễn biến
của các cuộc hành quân của lính tập, luôn luôn
thoát hiểm kịp thời trong đường tơ
kẽ tóc, bảo toàn lực lượng nghĩa quân
ở mức có thể. Người thứ hai cũng
sành phép bói Dịch, dùng nó để độ thân và
nuôi chồng con là người vợ của Cao Bá Quát
mà ông gọi lóng là Ngọc Rồng (Long Châu) v́ bà là
vợ của Rồng đầu đàn - Nguyên Long -
biệt hiệu của Cao Bá Quát.
Chỉ bắt nguồn từ Bát
quái mà người ta tiên đoán tất tật mọi
sự đời, chứng tỏ vũ trụ quan
của nho học thật siêu việt, phong phú, tinh vi.
Ở những ngôi nhà cổ (không loại trừ
những ṭa biệt thự ngày nay!), người ta
thường treo một tấm gỗ tám cạnh
đều chạm trổ bát quái cùng Thái cực,
Lưỡng nghi, Tứ tượng (có kèm 4 chữ:
Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh) để tỏ ḷng tôn
trọng, sùng tín vũ trụ quan chính thống thiêng
liêng của nho gia. Tuy nhiên, với đa số
người do tŕnh độ hạn chế mặc
nhiên coi đó là một loại bùa trừ ếm ma
quỉ.
Xem ra việc thể hiện vũ
trụ quan qua Bát quái đồ trên đây chỉ chú
trọng phần không gian (Vũ) mà lăng quên hẳn
phần thời gian (Trụ). H́nh như giới Vật
lư học giải quyết phần này có vẻ cụ
thể, thú vị hơn. Giới ấy cho rằng
nếu người ta có thể “bay” ngược
thời gian (theo chiều Đông - Tây tức
ngược chiều quay của địa cầu)
với vận tốc cao hơn ánh sáng (300.000 km/giây) th́
sẽbắt gặp lại những sự kiện
xảy ra trong quá khứ. Chẳng hạn sự phá
hoại khủng khiếp ṭa tháp đôi của Mỹ
xảy ra cách nay 13 năm, nếu ta “bay” nhanh gấp
đôi ánh sáng (tức 600.000km/giây, tức 2.160 triệu
km/giờ) tất chỉ tốn 6,5 năm bay
ngược như thế (tức vào năm 2012 + 6, 5 =
2021,5) ta sẽ thấy lại sự kiện rùng
rợn ấy, nhằm vào lúc nhân loại đi lại
tấp nập rộn ràng, chuyện tṛ linh tinh
thoải mái ở giữa năm 2022. Lư thuyết là
vậy nhưng thực hiện là điều hoang tưởng
v́ chẳng làm ǵ có thứ máy móc nào đạt
đến vận tốc như thế, lại không có
loại trang phục phi hành nào bảo vệ
được cơ thể con người trong
cuộc hành tŕnh kỳ quái viển vông đi t́m quá
khứ ấy. (Lư thuyết này đă được
thừa nhận bởi nhà văn Trần Bạch
Đằng trong tác phẩm “X.30 phá lưới” khi ông
hư cấu giới t́nh báo Mĩ có loại máy ảnh
chụp được những h́nh ảnh từng
đă xuất hiện trước đó không lâu (tuy
hiện tại h́nh ảnh ấy không c̣n nữa).
Nếu cuộc bay ngược thời gian như
vậy, lại tăng tốc “gấp 10 triệu
lần vận tốc ánh sáng (3.000 tỉ km/giây !) th́
chỉ tốn gần 7 năm, tức vào năm 2019 ta
sẽ … bắt gặp đủ mặt từ voi
mamouth đến những loại khủng long ăn
cỏ, ăn thịt cùng vô số loài cầm thú cổ
quái khác.
Xét về mặt lư thuyết, tuy
không thể nào thực hiện chuyến hành tŕnh bay
ngược thời gian, nhưng dựa nguyên tắc
suy luận kể trên, ta phải thừa nhận một
quy luật: với không gian (vũ) có thể xuất
hiện các “lỗ đen” nhưng số tinh tú vẫn
ngày càng được khám phá và bổ sung thêm nhiều
th́ về thời gian (trụ) cũng tồn tại hằng
hà sa số sự việc quá khứ. Như vậy,
không có “lỗ đen” nào gây thất thoát và luật
Hằng tại “thể hiện cho cả Vũ lẫn
Trụ”. Những định tinh, hành tinh, tuệ tinh
muôn đời c̣n đó th́ trong cái vũ trụ ấy
mọi sự cũng c̣n đó, những việc
thiện ác loài người gây cho nhau cũng tồn
tại bền bỉ như vậy nhưng không ai
nhận ra được v́ bản chất của
chúng là không có h́nh thể, bất chấp kẻ làm
thiện có “báo cáo” hay kẻ làm ác cố “phi tang,
chạy tội” th́ những ǵ họ đă làm vẫn
được vũ trụ ghi nhận, tích lũy và
xử lư dần dần vào thời điểm hợp
lư.
Ai đảm nhiệm việc
xử lư ấy ? – Trời.
Mỗi tôn giáo đều có “Ông
Trời” riêng của ḿnh. Đó là Jehovah, là Allah, là
Thượng đế, v.v… Nho giáo gọi Trời là
Thiên. Chữ Thiên được cấu tạo theo phép
hội ư: Nhất đại vi Thiên. Câu ấy có
nghĩa là chữ Nhất (一) ghép
với chữ Đại (大) thành
chữ Thiên (天)
đồng thời cũng có nghĩa “Đấng
lớn nhất là Trời”. Từ định nghĩa
đó, người ta nêu ra hướng phấn
đấu cho con người chân chính là: “Nhân hi
Hiền - Hiền hi Thánh - Thánh hi Thiên” (người b́nh
thường có hi vọng trở thành người
Hiền (người tài trí), người Hiền hi
vọng trở thành bậc Thánh (tài trí tuyệt
đối), bậc Thánh hi vọng làm Trời (bậc
giúp đỡ cho Trời Đất việc tiến
hóa và phát triển). Sách Trung dung chép: “Khả dĩ tán
thiên địa chi hóa dục, tắc khả dữ
thiên địa tham hĩ”.
Quan niệm rằng Thánh nhân là
người có khả năng làm “tham tán” cho Trời,
Đất. Thoạt nghe có vẻ suy tôn quá đáng
đến độ viển vông vu khoát nhưng
thật ra t́nh h́nh có vẻ khá đơn giản.
Chẳng hạn người ta thống nhất
rằng tông chỉ của Trời là “thích sự
sống” (Thượng Đế hiếu sinh),
“tạo” ra vật này và cho nó “hóa” nên vật khác
để mọi vật sinh sôi nẩy nở, thế
nhưng lác đác lúc này, lúc khác, nơi này nơi khác,
khí hậu và thời tiết gây ra hạn hán, lũ
lụt, ḱm hăm sự phát triển gây thiệt hại
cho sự sống. Trong trường hợp đó,
nếu có người đứng ra tận t́nh
giải quyết để duy tŕ cuộc sống, phát
triển cuộc sống, thúc đẩy sinh sôi nẩy
nở, hoặc t́m ra rồi nhân lên những giống
cây, giống con mới mẻ, hiệu quả cao,
đấy chính là thánh nhân, là tham tán sự hóa dục
của Trời Đất trong tông chỉ “hiếu
sinh”. Nhiều tôn giáo cũng đă phong thánh cho các nhân
vật có thành tích cụ thể như thế
(Chẳng hạn như trường hợp
đạo Cơ Đốc phong thánh cho Christophe
Columbus).
Trở lại khái niệm về Ông
Trời.
Với đa số áp đảo,
người đời thường cho Trời là
một…nhân vật siêu h́nh, chỉ lộ ra gương
mặt nóng bỏng thiên hạ nh́n thấy hằng ngày,
c̣n môi mũi, tóc tai th́ chẳng ai thuật tả
được. Mỗi người tùy tiện h́nh dung
ra Ông Trời riêng cho ḿnh và như vậy, nếu
một con trâu cũng có khái niệm về Ông Trời
của ḿnh, tất nó cũng cho…Ông Trời ấy có
sừng, và con cá nghĩ rằng ông Trời có vi có
vảy lại biết bơi trong nước (!). Có
lẽ nhiều người coi bầu trời, da
trời, mặt trời đều là vật sở
hữu của “Ông Trời” nên người ta
đều cảm thấy ḿnh rất gần gũi
với Trời thành thử tỏ ra có cảm t́nh yêu
kính đặc biệt, coi Trời là ân nhân:
Nhờ
ơn trời biển lặng cá đầy ghe.
(Tế
Hanh)
Lạy
trời mưa xuống,
Lấy
nước tôi uống,
Lấy
ruộng tôi cày,
Lấy
đầy bát cơm,
Lấy
rơm đun bếp.
(Đồng
dao)
Vân vân…
Cho đến nay, người duy
nhất căm ghét Trời, hỗn xược với
Trời có lẽ là Trần Tế Xương (1870 –-
1907).
Hơn hai mươi năm thi
cử (cộng thêm mười năm đèn sách)
họ Trần chỉ đỗ một lần “Tú
rốt bảng” khoa Giáp Ngọ (1894) c̣n 7 khoa kia
đều hỏng (thi chữ Hán, kẻ đỗ hai
lần tú tài được gọi là ông Kép, ba lần
là ông Mền, bốn lần là ông Đụp. Ông
Đụp mới được bổ dụng
như kẻ đỗ cử nhân nhưng dường
như chưa có ai phấn đấu đến
mức được hưởng ân huệ ấy.
Thân phụ Nguyễn Khuyến chỉ đỗ ông
Mền rồi bỏ cuộc, nhường chỗ cho
Nguyễn Khuyến!)
Đau nhất cho Tú Xương là
ông đặt rất nhiều hi vọng vào khoa thứ
tám, đổi tên ḿnh thành Trần Cao Xương
cho…hoành tráng hơn, chắc ăn hơn, nhưng
rốt cuộc vẫn hỏng (đó là chưa kể
thủ tục cùng lễ vật và ḷng thành có lẽ gây
tốn kém cho ông không phải là ít):
Rơ
thật nôm hay mà chữ dốt,
Tám
khoa chưa khỏi phạm trường qui
(Hỏng
thi)
Thế nhưng khi đọc
đề thi, ông lại bối rối nhầm chữ
Kiện (健) ra
chữ Tiệp (捷),
thế là phạm trường quy, chịu cảnh
“đau quá đ̣n hằn, rát hơn lửa bỏng,
tủi bút tủi nghiên, hổ lều hổ chơng” (Phú
hỏng thi). Nếu ông Trời rộng ḷng phù hộ
cho họ Trần khỏi đọc nhầm chữ
trong đề thi, lại phù hộ nốt cho ông đỗ
thủ khoa đi nữa th́ chưa chắc ông kịp
làm quan v́ chỉ một tháng sau khoa thi ấy, họ
Trần bị đột tử trong dịp về
ăn giỗ ở quê ngoại.
Đau như thế, rát như
thế, họ Trần trút căm hờn vào Trời:
Tế
đổi làm Cao mà chó thế !
Kiện
trông ra Tiệp, hỡi trời ơi.
(Theo
Trần Thanh Mại)
Đây là kiểu đối xấc,
đem chó đặt vào địa vị trên cả
Trời! Các nhà nghiên cứu đời sau thấy ông
cay cú quá đáng với đấng thiêng liêng nên tự
ư đổi câu trên một cách gượng gạo:
Tế
đổi làm Cao nên sự thế !
Nguyễn Khuyến sau khi từ quan
về làm ruộng ở tuổi 49 gặp phải
cảnh mất mùa liên miên, bọn chủ nợ th́ “lăi
mẹ lăi con sinh đẻ măi –- Chục năm chục
bảy biết làm sao ? (Than nợ) nhưng sự
căm oán của ông chừng mực hơn, không
thất lễ quá đáng như Trần Tế
Xương:
Phần
thuế quan thu, phần trả nợ
Nửa
công đứa ở, nửa thuê ḅ.
(Làm
ruộng chốn quê)
Nguyễn Khuyến đọ quan vào
hàng đứa ở, chủ nợ ngang với ḅ
để trút bỏ nỗi niềm cơ cực
khốn quẫn trong giai đoạn làm ruộng, mùa màng
thất bát, chủ nợ eo xèo, thuế má thúc giục.
Nguyễn Khuyến tuân giữ chu đáo phương
châm “người quân tử th́ không oán Trời, không
trách Người” (quân tử bất oán Thiên, bất
vưu Nhân), nên không căm ghét, hằn học với
trời như Tú Xương.
Sùng kính ông Trời tột độ
là những tín đồ Thiên chúa giáo. Trước
mỗi bữa ăn, họ đều giữ lễ đọc
Kinh “Lạy cha chúng con ở trên Trời”. Mỗi ngày có
hơn tỉ người đọc như thế
bằng hàng trăm thứ tiếng trong bữa ăn
và họ coi bữa ăn ấy là …do Trời ban cho nên
họ tha thiết cảm kích ơn Trên ấy.
Dửng dưng với Trời
nhất, có lẽ là Lăo giáo và Phật giáo.
Lăo Tử phát biểu: “Trời nói ǵ
đâu ? Bốn mùa vận hành, muôn vật sinh sôi,
Trời nói ǵ đâu!” (Thiên hà ngôn tai ?Tứ thời hành
yên, vạn vật sinh yên, thiên hà ngôn tai ? -Đạo
Đức Kinh)
Theo câu ấy có lẽ Lăo Tử
muốn nói là phần Trời, phần Người ai
ra phận ấy, chẳng ai nhờ ai, cầu xin ai.
Với Lăo Tử, Trời trông như một ông hàng xóm
lương thiện có quyền lực đáng nể
nhưng không giáng oai tạo phúc cho Người. Chỉ
có thế thôi.
Cũng trong Đạo Đức
Kinh, Lăo Tử đề cập “Đạo Trời là
làm hao tốn chỗ có thừa để bù đắp
cho chỗ không đủ. Đạo của
người th́ không như vậy, làm hao tốn
chỗ không đủ để cung phụng cho
chỗ có thừa” (Thiên chi đạo, tổn hữu
dư dĩ bổ bất túc. Nhân chi đạo tắc
bất nhiên, tổn bất túc dĩ phụng hữu
dư -– Sđd)
Phật giáo th́ chia trời ra
nhiều tầng, tín đồ sẽ tái sinh vào các
tầng ấy tùy theo mức độ tu hành của
ḿnh, Phật không can thiệp được. Mọi
con người được đăi ngộ tốt
hay xấu đều do những ǵ họ làm trong
kiếp sống. Kiếp này làm tốt th́ kiếp sau
hưởng tốt, kiếp này làm xấu th́ kiếp
sau chịu cảnh ngộ xấu, sự ứng
nghiệm ấy có giá trị tuyệt đối,
chỉ cần nh́n vào cảnh ngộ một
người là suy ra được những ǵ họ
đă xử sự ở các kiếp khác. Mọi sự
đều bị chi phối từ luật báo ứng
nhân quả luân hồi.
Phật dạy: “Muốn biết
Nhân đời trước th́ xem điều đang
nhận được ở đời này. Muốn
biết Quả đời sau, th́ xem việc làm ở
đời này” (Dục tri tiền thế Nhân, kim sinh
thụ giả thị, dục tri lai thế Quả, kim
sinh tác giả thị –- Kinh Phật).
Như vậy, việc báo ứng
thiện ác diễn ra từ kiếp này sang kiếp khác
chứ không giải quyết dứt điểm ngay
trong một kiếp, tức không chỉ có
chuyện…quả báo nhăn tiền. Động cơ báo
ứng ấy là Nghiệp. Nghiệp là tổng số
kết quả tốt xấu tích tụ từ
những ǵ bản thân con người gây ra. Trong quá
tŕnh báo ứng theo Nghiệp, có quá tŕnh cộng trừ
tự nhiên để có được một hiệu
ứng phù hợp. Trời không hề can thiệp vào
sự báo ứng tự động của Nghiệp.
Với Nho gia, sự can thiệp
của Trời có phần tích cực, kịp thời
để đương sự có cơ hội
thấm thía, ăn năn chứ không dửng dưng như
Lăo giáo hay kéo dài trong sinh tử luân hồi như
Phật giáo.
Theo Nho gia th́ Trời không hề
vắng mặt trong cuộc sống mỗi con
người.
Thiệu Khang Tiết (1011-1077), nhà
nghiên cứu Kinh Dịch đời Tống viết:
Thiên
thính tuyệt vô âm.
Thương
thương hà xứ tầm.
Phi cao
diệc phi viễn,
Đô
chỉ tại nhân tâm.
Nhân
tâm sinh nhất niệm,
Thiên
địa tất giai tri.
Thiện
ác nhược vô báo,
Càn
khôn tất hữu tư.
(Trời nghe được
cả lúc tuyệt nhiên không có âm thanh ǵ - Xanh xanh
biết t́m nơi đâu - Không cao cũng không xa -
Đều chỉ ở ḷng người - Ḷng
người mới nảy ra ư nghĩ - Trời
Đất liền đều biết cả -
Thiện ác nếu không báo ứng - Tất là Trời
Đất có cách châm chước đắn đo riêng
- Minh Tâm Bảo Giám - Thiên Lư)
Thái Trọng Lai diễn ca:
Trời
nghe cả tiếng thinh không,
Xanh
xanh thăm thẳm t́m ông nơi nào.
Chẳng
xa mà cũng chẳng cao,
Chỉ
trong ḷng dạ biết bao con người.
Ḷng
người mới nảy ư thôi,
Tức
th́ Đất Trời đă biết được
ngay.
Thiện
ác báo sớm hay chầy,
C̣n tùy
cân nhắc đó đây cho vừa.
Bài thơ trên của Triệu Khang
Tiết xác định:
-
Trời là thế lực bản
nhiên, quyền lực phi thường chỉ có trong ư
thức con người chứ không có ở thực
tế.
-
Trời chỉ tồn tại trong
ḷng người, mọi hoạt động của
ḷng người lập tức động đến
ư thức nhạy cảm của Trời. Nói cách khác,
khái niệm Trời ở đây rơ ràng là đề
cập đến Lương tâm. Trời khởi
động công cuộc trừng thiện phạt ác
đúng lúc, đúng trong một kiếp, con người
thi thố biết bao điều thiện ác lẫn
lộn, Trời Đất phải đắn đo
riêng, cộng trừ thỏa đáng rồi mới
tất toán vào lúc cuối đời chứ không xử
lư ṣng phẳng từng điều, từng vụ
việc lặt vặt.
Nguyễn Du đă ḥa lẫn Phật
giáo với Nho giáo trong phần kết Truyện
Kiều:
Gẫm
hay muôn sự tại Trời,
Trời
kia đă bắt làm người có thân.
Bắt
phong trần phải phong trần,
Cho
thanh cao mới được phần thanh cao.
Có
đâu thiên vị người nào,
Chữ
Tài chữ Mệnh dồi dào cả hai.
Có Tài
mà cậy chi tài,
Chữ
Tài liền với chữ tai một vần.
Đă
mang lấy Nghiệp vào thân,
Cũng
đừng trách lẫn Trời gần Trời xa.
Thiện
căn ở tại Ḷng ta,
Chữ
Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.
(Truyện
Kiều – 3241 - 3252)
Câu cuối đoạn thơ trên
nhắc ta nhớ đến câu thơ thứ tư
của Thiệu Khang Tiết trên kia.
Sự hiện diện của
Trời trong cuộc sống thể hiện rơ nhất
trong nghi lễ quốc gia theo chế độ phong
kiến. Từ đời Hán, vua chúa phong kiến thường
cử hành lễ “phong thiện” trên núi Thái Sơn (có
lẽ ngụ ư chọn nơi “gần” Trời
nhất !). Tên gọi phong thiện hàm ư rằng
Trời “phong” họ làm vua cai trị phần
đất dưới gầm trời, tức “thiên
hạ” và phong như thế tức là Trời đă
nhường (thiện) cho vua cái quyền làm Trời,
và vua sẽ… thế thiên hành đạo. Ở Việt
Nam, lễ phong thiện tức là lễ tế Nam giao
(phong thiện cho “cơi phía Nam”) và các vua mỗi khi ban
chiếu dụ đều bắt đầu bằng
cụm từ “Thừa thiên hưng vận” (Dựa theo
vận hội hưng thịnh của Trời cho). Khi
một vua bị lật đổ, tức cái
“mệnh” mà Trời “phong thiện” cho họ đă
bị thu hồi để trao cho kẻ xứng
đáng, hợp ḷng trời hơn. Và như vậy,
“mệnh Trời” cũng là thực thể hằng
tại. Khái niệm ông Trời không lúc nào vắng trong
tâm tưởng con người, “ông Trời” thuộc
dạng “vô lượng thọ” (sống lâu không
đếm hết) như phật A Di Đà trong
Phật giáo. Gọi rằng “ông Trời” đeo
đẳng măi măi trong tâm tưởng con người
chỉ là cách diễn đạt tương
đối, theo tôi, có lẽ con người cảm
thấy gần “ông Trời” nhất vào những lúc
bị đắm tàu giữa biển cả mênh mông
hoặc nghe tiếng rít của c̣i báo động phi
cơ địch oanh tạc và người ta dễ
dàng…quên tiệt ông ấy lúc đang quay cuồng trong
những thú vui trần thế. Mặc dù vậy
chưa có tôn giáo hay thế lực chính trị nào
phủ nhận thật ḷng sự hằng tại
của Trời.
Sự hằng tại của vũ
trụ kéo theo sự hằng tại của vạn
vật như đă đề cập ở phần
trên. Muốn kiểm tra chu đáo là bay ngược
thời gian với vận tốc lớn hơn ánh
sáng. Biện pháp ấy chỉ dựa trên suy luận
thuần túy, chưa hề được chứng
minh, thừa nhận.
Trong thực tế, người ta
chỉ có thể thừa nhận qua một số kinh
nghiệm. Chẳng hạn vụ việc có liên quan
đến nhà chí sĩ Phan Bội Châu (1867-1940).
Chuyện này được kể lại ở tác
phẩm “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân
và một bài báo trên tạp san “Người giáo viên nhân
dân” khoảng cuối thập kỷ 80 của thế
kỷ trước.
Nói đúng ra đấy là chuyện
thi cử của ông Đầu xứ Nghệ Phan
Văn San (tên cũ Phan Bội Châu).
Đầu xứ là tên gọi
người hay chữ nhất tỉnh vào thời
điểm một Đầu xứ cũ qua
đời. Kết quả ấy đạt
được bằng cuộc đỗ đầu
kỳ b́nh văn ở trường Đốc. Phan
Văn San ở Nghệ An hưởng vinh dự
ấy, đặc biệt là Đầu xứ một
tỉnh vốn nổi tiếng về văn học
khoa bảng.
Truyện kể rằng, vào thời
trai trẻ, thân phụ Đầu xứ San đă
chuốc oán với một thôn nữ và cô ta hiện
hồn tuyên bố sẽ báo oán đến cùng. Thế
là thân phụ ông Đầu xứ bệnh hoạn
triền miên, liệt giường hàng chục năm
trời, c̣n Đầu xứ San th́ đi thi cứ
gặp trắc trở măi, đặc biệt là
thường lên cơn đau bụng bủn rủn
tay chân, không sao cầm nổi bút làm bài thi
được.
Ai cũng biết rằng tục
lệ thi cử xưa, sĩ tử bị “khủng
bố” bằng câu thông báo công khai cho cả thế gian:
“báo ân giả tiên nhập, báo oán giả thứ
nhập, sĩ tử thứ thứ nhập” (các
hồn ma báo ơn vào trước, các hồn ma báo oán
vào tiếp theo, sĩ tử lần lượt vào
cuối cùng). Trong t́nh cảnh đó, ông Đầu
xứ Nghệ bấy giờ luôn mang theo lễ
vật, vàng mă vào trường thi, bày cúng khấn vái chí
thành nhưng mọi chuyện vẫn như cũ.
Khoa Canh Tí (1900), Tổng đốc
tỉnh Nghệ An là Đào Tấn quyết ra tay can
thiệp, bèn bàn trước với Chủ khảo
trường Nghệ năm ấy là Vương Duy
Trinh. Đôi bên nhất trí thực hiện kế
hoạch họ Đào. Trước lều thi của
Đầu xứ San, bố trí hai người lính
thể sát tuốt gươm trần đứng dàn
hầu (người xưa tin rằng ma quỉ
vốn kỵ sắt thép, chỉ cần rải ít cây
đinh vào quan tài hay huyệt mộ là hồn ma không dám
đi đầu thai hay quậy phá)
Quả nhiên khoa ấy Đầu
xứ San không bị rắc rối ǵ lại c̣n
đỗ thủ khoa vào hàng danh giá nhất lịch
sử, các bài thi đều được phê ưu, mà
lại ưu “kiêm trị” (trong kỳ thi trường
nhất mỗi khóa sinh chỉ cần chọn hai
đề trong sáu đề thi quan trường ra, ai
làm được cả sáu đề th́ gọi là
“kiêm trị”. Điểm từng bài có thấp chút ít
cũng vẫn được đỗ). Đầu
xứ San thừa th́ giờ làm cả sáu đề
lại đạt điểm cao nhất cho cả sáu,
đó là chuyện chưa có tiền lệ.
Quá xuất sắc như thế nên
quan trường đặt làm riêng một bảng
sơn son thiếp vàng chạm tên thủ khoa Phan Văn
San chứ không công bố chung với danh sách giải
ngạch của trường Nghệ.
Lễ rước vinh qui về
đến đầu làng th́ thân phụ Đầu
xứ San trút hơi thở cuối cùng ngay khi nhận
được tin báo. T́nh h́nh ấy có thể cho là cuộc
báo oán nọ của Âm phủ coi như đă hoàn thành
thỏa đáng. Dương pháp chỉ thắng
thế tạm thời. Thế nhưng cái chết
của thân phụ ḿnh cũng đă chặn
đường làm quan của ông Đầu xứ
Nghệ v́ ông phải cư tang ba năm.
Trong câu chuyện này sự hằng
tại của lỗi lầm Thân phụ ông Đầu
xứ vẫn không bị triệt tiêu trước
“dương pháp” của Đào Tấn hay Vương
Duy Trinh mà chỉ là cơn dương thịnh làm cho âm
suy, cuối cùng rồi đâu cũng hoàn đấy.
Ông thủ khoa trường Nghệ ấy vẫn phải
vào Quốc Tử Giám ôn tập, tiếp theo là một
thời kỳ dài bôn ba hoạt động chính trị
trong và ngoài nước cho đến khi bị Pháp
bắt và lănh án an trí ở Bến Ngự năm 1925.
Nho gia quan niệm: làm điều
thiện sẽ được đáp lại bằng
điều thiện. Làm điều ác sẽ bị
đáp lại bằng điều ác. Nếu chưa ai
nhận thấy báo oán là do giờ giấc chưa
đến (Thiện hữu thiện báo - Ác hữu ác
báo -– Nhược hoàn bất báo - Thời thần
vị đáo - Minh Tâm Bảo Giám - Kế Thiện)
Thái Trọng Lai diễn ca:
Làm
thiện gặp thiện,
Làm ác
gặp ác.
Không
gặp lúc này,
Th́
gặp lúc khác.
Trong kinh nghiệm, ta nhận
thấy kẻ làm điều thiện có thể
chưa được báo đáp bằng một
điều thiện hệt điều thiện
kẻ ấy đă làm. Mặc dù vậy, cũng có
sự hằng tại của việc thiện kẻ
ấy đă làm tự động… lưu vào “hồ
sơ” âm pháp th́ mới diễn ra sự báo đáp
được.
Ngược về quá khứ
chừng ngh́n năm, anh chăn trâu Đinh Bộ
Lĩnh gặp thời, đánh tan 12 sứ quân rồi
lên làm vua, đặt vạc dầu trước sân,
nuôi hổ báo trong vườn, chủ trương
“dĩ cương chế nhu” (lấy cứng trị
mềm), liệu cách làm ấy có bao nhiêu phần
thiện, bao nhiêu phần ác ? Và có phải 12 sứ quân
đều toàn là người ác cần phải
loại trừ toàn bộ ? Tất cả đều làm
ác ư ? Chỉ có Đinh Bộ Lĩnh là người
thiện ư ? Và câu ngạn ngữ “Một
tướng thành công, phơi khô muôn hài cốt”
(Nhất tướng công thành vạn cốt khô)
chắc ǵ không ngụ ư phê phán cái ác tiềm ẩn tuy
sự thành công của tướng ấy có đáng
tự hào đến đâu.
Đinh Bộ Lĩnh đă chủ
trương một đường lối cai trị
cứng rắn đến thế, nghiêm ngặt
đến thế, quyết liệt đến
thế, có nghĩa là tâm trí lúc nào cũng lăm lăm
cảnh giác, lăm lăm đối phó để t́m
cho ra những kẻ đối lập đáng nếm
vạc dầu hay chuồng cọp chứ chẳng
hề dễ dăi thờ ơ. Như thế tại sao
có những phút thiếu cảnh giác cho cả cha
lẫn con, tạo dịp cho Đỗ Thích hành
động khi mà chốn Hoa Lư vẫn c̣n nhan
nhản đám bộ hạ của 12 sứ ? Và lời khai đầy tính
đối phó của Đỗ Thích (Tại mộng
thấy sao rơi vào mồm) mà sử gia coi là lời
khai trung thực hay sao ? Nh́n cho thấu đáo, đây rơ
ràng là chuỗi báo ứng không nhầm lẫn của
thiện ác như đă xác định trong 4 câu
độc vận nêu trên. Với những t́nh tiết
nọ, có thể coi hành động của Đỗ
Thích là hoàn toàn mù quáng, vâng theo Lẽ Trời một cách
vô thức để giải quyết việc báo
ứng thiện ác do cha con Đinh Bộ Lĩnh -
Đinh Liễn đă tạo ra rồi hằng tại
trong tự nhiên gây ra mấy cái chết cho Hạng Lang
cùng cha con Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn,
tức là tác động của luật Hằng
tại trong Vũ trụ.
Một trường hợp khác
rất đáng đề cập là chuyện Chế
Bồng Nga. Y đáng được coi là Napoleon
của nước Chiêm Thành nhỏ bé. Chủ
trương của họ Chế vốn
được đạo lư cổ điển phê phán
là “cùng binh độc vũ” (làm xác xơ quân lính,
lấy vũ lực áp đảo) bằng cách mang quân
ra đánh Đại Việt tất cả 11 lần.
Nhân dân duyên hải Nghệ An, Thanh Hóa cứ đến
mùa gió nồm là nơm nớp lo âu, ăn ngủ không
yên. Đặc biệt có lần y c̣n tấn công “làm cỏ”
kinh thành Thăng Long (làm cỏ: cướp sạch,
đốt sạch, giết sạch, không tha cả gà
chó). Măi đến lần tấn công thứ 11 vào kinh
đô Thăng Long (1390), chẳng rơ v́ vụ việc ǵ,
y nổi cơn thịnh nộ với tên tùy
tướng Ba Lậu Kê, tên này đào ngũ,
đầu hàng quân Đại Việt đúng lúc
Trần Khát Chân điều quân đi ngăn chặn.
Nhờ tên nọ chỉ điểm đích xác, quân
Trần Khát Chân nhắm đúng thuyền của
Chế Bồng Nga, tập trung hỏa lực dứt
điểm, Chế Bồng Nga chết đuối
như kẻ gặp tai nạn bất ngờ. Một
nhà quân sự gặt hái nhiều thành công lẫy
lừng trong quá khứ, cũng có nghĩa là gây vô
số điều ác, thế mà phơi thây nơi
chiến địa không chút oanh liệt, nhất là
đang ồ ạt tiến hành cuộc xâm lăng.
Bỏ ḿnh thật bất ngờ dưới tay
một viên tướng trẻ mới 20 tuổi
đầu như Trần Khát Chân (cháu sáu đời
của Trần B́nh Trọng), đấy c̣n đáng coi
thêm là nỗi nhục khác. Sử chép rằng trong
lần vâng mệnh vua xuất quân, Trần Khát Chân bi
quan đến tuyệt vọng, mặc tang phục vào
lạy vua (quyết chắc có đi không về), dè
đâu khi bất ngờ gặp tên hàng binh giúp t́nh
thế chuyển ngược. Trong trường
hợp này, nếu suy nghĩ cho thấu triệt, câu
chuyện được xâu chuỗi suốt 11 lần
viễn chinh, nghĩa là có sự chi phối của
luật Hằng tại, của những sinh linh trong
hàng chục năm trời, trong đó có cả
Đại Việt lẫn Chiêm Thành chứ không phải
là chuyện ngẫu nhiên chốc lát xảy ra cho viên
tướng trẻ “ăn may” Trần Khát Chân (1370-1399)
rồi viên tướng này cũng bị Hồ Quư Ly
giết hại lúc 29 tuổi !.
Việc diễn ra cho triều
đại nhà Hồ có vẻ cũng chịu sự chi
phối nghiệt ngă của luật Hằng tại khi
Hồ Quư Ly mạo nhận ḿnh là ḍng dơi Ngu Thuấn
để dựa cớ ấy cải quốc hiệu
là Đại Ngu. Ngu Thuấn vốn được
lịch sử tôn là thánh vương đại
hiếu đại nhân đại đức, sống
cách Hồ Quư Ly 3.600 năm, thế mà Hồ Quư Ly
chẳng những mạo nhận ḍng dơi đạo
đức mà c̣n ra tay diệt chủng tàn bạo sát
hại 370 tôn thất nhà Trần vào năm 1399 (cuộc
giết hại khủng khiếp nhất lịch
sử bấy giờ). Thế rồi 8 năm sau
đến lượt tôn thất nhà Hồ cũng
bị quân Minh bắt đưa về Kim Lăng, an trí
phân tán nhiều nơi đến nay gần như
tuyệt tích. Nếu Hồ Quư Ly bớt thông minh đi
một chút, bớt tự tin đi một chút th́ nhà
Minh cũng không có cớ tạo ra cảnh “núi thây
người” ở miền Thanh Hóa, Nghệ An. Rồi
lại đến lượt bản thân Trương
Phụ, kẻ khát máu khét tiếng, từng dọn
“cỗ đầu người” chiêu đăi Nguyễn
Biểu, sứ thần nhà Hậu Trần cũng “sa
vào rọ” của Thoát Thoát Bất Hoa để bỏ
mạng ở Thổ mộc bảo năm 1449 khi
đang giữ chức Binh bộ thượng thư
triều Minh Anh Tông. Phải thừa nhận luật
Hằng tại đă tạo nên một chuỗi oan gia
đan cài nhau khá ngoạn mục: Trần <- Hồ
<- Minh <-Nguyên. Thực ra chuỗi đan cài này có
thể nối thêm một phần trong quá khứ,
bắt đầu từ chuyện Lê Hoàn chiếm ngôi
vua của Phế đế Đinh Tuệ chỉ
bằng một kịch bản đơn giản “Thái
hậu Dương Vân Nga mặc hoàng bào cho Lê Hoàn” nghe
cóphần hài hước bởi thanh toán một
triều đại luôn trả giá cao hơn mới phù
hợp với t́nh h́nh lịch sử. Đến
lượt nhà Lư soán ngôi nhà Tiền Lê cũng dùng kịch
bản tương tự, Lư Công Uẩn
được bầu cử công khai và ngẫu
hứng cũng lập nổi một triều
đại hơn 200 năm. Lại đến nhà
Trần, việc soán ngôi diễn ra đẫm máu,
Trần Thủ Độ bức tử Lư Huệ Tông,
chôn sống 300 tôn thất nhà Lư. Có lẽ đó là lư do
trực tiếp cho cuộc bỏ ngôi của Trần
Thái Tông, về tu ở chùa Yên Tử một thời
gian. Nếu không có những cái chết kia chắc
chưa thể xảy ra việc bỏ ngôi đi
trốn của một ông vua dựng nghiệp.
Việc xuất hiện Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
cũng là chuyện không b́nh thường nếu không v́
vua Trần Nhân Tông đích thân chứng kiến hàng
vạn thây quân Nguyên tội nghiệp chết v́
“Đại Tướng Mùa Hè Nhiệt Đới”
(tương tự Đại Tướng Mùa Đông
của Matxcơva đánh đuổi đoàn quân
thiện chiến của Napoleon hồi thế kỷ
19). Chừng ấy vụ việc, rơ ràng là luật
Hằng tại tác động dai dẳng trong vũ
trụ đă tạo nên sự cắn rứt
lương tâm, ăn năn sám hối cho các
đương sự lịch sử.
Lư lẽ thông thường của
những kẻ hành động tàn ác luôn nghĩ ḿnh có
toàn quyền, thừa sức lung lạc quốc pháp,
mua chuộc dư luận, bưng bít chứng cứ,
ngoài ḿnh ra không ai biết được. Những
kẻ ấy đâu ngờ rằng cái phần ḿnh
đối phó chỉ lay hoay trong phạm vi 5% ngoài sáng,
c̣n sau lưng họ 95% nằm trong bóng tối (theo
ước lượng thống nhất của
giới khoa học vũ trụ) màø trong bóng tối bao
la ấy là luật hằng tại, lưu giữ rành
mạch và nghiêm ngặt những ǵ mà họ đă dày
công che mắt thế gian và tưởng là vô cùng hoàn
hảo, chứ không ngờ phải đợi chờ
trả giá.
Sách Minh Tâm Bảo Giám đă khẳng
định:
Hành
tàng hư thực tự gia tri,
Họa
phúc nhân do cánh vấn thùy ?
Thiện
Ác đáo đầu chung hữu báo ,
Chỉ
tranh lai tảo dữ lai tŕ.
Nhàn
trung kiểm điểm b́nh sinh sự,
Tĩnh
lư tư lương nhật sở vi.
Thường
bả nhất tâm hành chính đạo,
Tự
nhiên thiên địa bất tương khuy.
Hàm nghĩa mấy câu trên:
1.
Ở đời, có kẻ tích
cực dấn thân, thi thố đến cạn
kiệt khả năng, có kẻ lại ẩn ḿnh tránh
xa những cám dỗ của dục vọng trần
tục theo kiểu nói kháy của Nguyễn Bỉnh
Khiêm:
Ta
dại ta t́m nơi vắng vẻ,
Người
khôn người kiếm chốn lao xao.
Tuy nhiên, làm hay lánh có cấp
độ khác nhau, Kẻ tích cực làm chắc
chắn (Thực), kẻ tiêu cực làm hời hợt
(Hư). Làm cấp độ nào th́ chính người
ấy biết lấy, người ngoài cuộc không
biết chắc được.
2.
Cái Nhân của họa phúc sẽ do
cấp độ “hư thực” ấy mà nảy sinh,
tự ḿnh biết rơ, chẳng việc ǵ phải
hỏi han giới bói toán vận mệnh mới
biết được.
3 - 4. Làm thiện, làm ác
rốt cuộc điều nhận báo ứng cả.
Sự báo ứng chỉ giành nhau vụ này báo sớm,
vụ kia báo muộn thế thôi.
5 - 6. V́ vậy cho nên
những lúc rảnh rang nên tự xét những
điều thiện ác ḿnh đă làm trong đời.
Những đêm khuya vắng lặng hăy nghĩ ngợi
về những hành vi, hoạt động của ḿnh
trong ngày (Cháu đích tôn của Khổng Tử là
Khổng Cấp, tức Tử Tư thầy học
Mạnh Tử đă thực hiện như thế ba
lần mỗi ngày).
7 - 8. Luôn luôn giữ ḷng
ḿnh cho chuyên nhất, đă định hướng cho
Tâm th́ phải trung thực với cái Tâm ấy, tránh
thói xấu “gió chiều nào che chiều ấy”, lúc
thế này, lúc thế khác, xoay chiều theo lợi ích cá
nhân, theo nhu cầu giai đoạn. Phải đi theo
đường chính, không lạc bước theo
hướng bất chính th́ tự nhiên Trời
Đất sẽ không gây sứt mẻ ǵ cho ḿnh.
Thái Trọng Lai diễn ca:
Ḿnh
làm, ḿnh tránh tự ḿnh hay,
Họa
phúc nảy mầm, khỏi hỏi ai.
Thiện
ác cuối cùng đều báo ứng,
Khác
nhau chỉ có sớm hay chầy.
Rảnh
rang kiểm điểm việc làm cũ,
Đêm
vắng nghĩ suy việc của ngày.
Cứ
giữ ḷng ngay theo nẻo đúng,
Đất
Trời sẽ xử chẳng oan sai.
Trời lưu trữ, bảo
quản hồ sơ thiện ác của con người
kỹ lưỡng đến thế rồi xử lư
cương quyết như thế. Đấy là giáo
điều cơ bản của nho giáo. Giáo
điều ấy là luật Hằng Tại trong vũ
trụ.
Cũng trong sách công cụ ở trên
có những câu:
Thuận
thiên giả tồn,
Nghịch
thiên giả vong.
Mưu
sự tại nhân,
Thành
sự tại thiên.
Nhân
nguyện như thử, như thử,
Thiên
lư vị nhiên, vị nhiên.
Thực
qua đắc qua,
Thực
đậu đắc đậu.
Thiên
vơng khôi khôi,
Sơ
nhi bất lậu.
Tử
sinh hữu mệnh,
Phú quư
tại thiên.
Nghĩa:
Thuận
lẽ trời th́ c̣n,
Ngược
lẽ trời th́ mất.
Tính
việc ở người,
Nên
việc ở trời.
Người
mong như thế, như thế,
Lẽ
trời chưa vậy, chưa vậy.
Trồng
dưa được dưa,
Trồng
đậu được đậu.
Lưới
trời lồng lộng,
Thưa
mà chẳng lọt.
Chết
sống có mệnh,
Giàu
sang tại Trời.
Thái Trọng Lai diễn ca:
Thuận
lẽ trời người mới c̣n,
Không
thuận lẽ ấy khó ḷng yên thân.
Toan
tính là việc cá nhân,
Việc
thành hay bại chỉ vâng lẽ trời.
Nguyện
vọng người mong là như thế,
Nhưng
lẽ Trời chưa thể làm vừa.
Trồng
dưa mới được ăn dưa,
Trồng
đậu ăn đậu, từ xưa thế
rồi.
Lưới
trời lồng lộng đấy thôi,
Tuy
thưa chưa để lọt người nào
đâu.
Sống
chết số mệnh định rồi,
Giàu
sang cũng phải nhờ Trời giúp nên.
Lăo giáo, Phật giáo, Nho giáo
đều quan niệm có Trời, một đấng quyền
uy rất mực. Trời của Lăo giáo khá độc
lập, hành sự đúng đạo lư, lấy chỗ
có thừa bù cho chỗ chưa đủ chứ không vô
lư như con người, lấy chỗ chưa
đủ để cung phụng cho chỗ dư
thừa (thiên chi đạo, tổn hữu dư, nhi
bổ bất túc. Nhân chi đạo, tất bất nhiên,
tổn bất túc, dĩ phụng hữu dư
-Đạo Đức Kinh). Trời của Phật
giáo c̣n thờ ơ hơn, chỉ hiện diện
lấy có, hoàn toàn không can thiệp đến mọi
hành xử của người đời, mặc
kệ cho con người (chúng sinh) ch́m đắm trong
cơi vô minh mặc t́nh gây nên nghiệp dữ để
rồi chịu đắm ch́m trong vực xoáy
nghiệt ngă của bến mê bể khổ. Trời
của Nho giáo có vẻ hợp tác với Phật giáo
ở chỗ mặc kệ cho con người gây điều
thiện ác rồi gồng ḿnh mà gánh nhận
đầy đủ quả báo đúng giờ giấc
nào đó, và Trời … giám sát chặt chẽ chứ
không gài số tự động như ở Phật
giáo. Và cả ba luồng tư tưởng ấy
nghiễm nhiên thừa nhận sự hằng tại
của vật chất, phi vật chất, phản vật
chất trong vũ trụ.
PHẦN
THỨ TƯ
CHỮ HỊA TRONG LUẬT HẰNG
TẠI CỦA VŨ TRỤ
Trong suy nghĩ b́nh thường th́
vũ trụ hiện hữu hoàn toàn tự nhiên, không
tuân theo quy luật nào cả. Thế nhưng nho gia quan
sát, suy nghiệm nghiêm túc và nhận ra luật hằng
tại của chữ Ḥa.
Trong văn tự biểu ư khá minh
triết của người Trung Quốc, chữ H̉A
được cấu tạo theo bộ Khẩu (口)
đi kèm chữ H̉A ( 禾 ) có ư nghĩa là thóc lúa, xác
định âm đọc, hợp thành chữ H̉A ( 和 ) có
nghĩa là ḥa đồng với nhau. Dân gian ta có câu nói
“lúa thóc đâu bồ câu theo đấy”, câu ấy
ngẫu nhiên minh họa khá sắc sảo cho chữ H̉A
rằng có lúa thóc th́ mới có ḥa b́nh (!)
Trong phạm vi vĩ mô, Nho gia
nhận định quy luật của vũ trụ là
đạo Thái ḥa (hài ḥa một cách vĩ mô). Do đó,
nam nữ b́nh đẳng là hợp đạo thái ḥa,
sẽ hằng tại trong vũ trụ, mọi kỳ
thị là gây ra bất ḥa, trái với luật hằng
tại. Thuyết Siêu nhân của Nietzsche (1844-1900) là
ngụy thuyết phá vỡ đạo Thái ḥa tạo
điều kiện cho Hitler (1889 - 1945) lạm dụng
để giết hại hàng triệu dân Do thái,
lại c̣n lập ra những trại “Suối
Đời” để…nhân giống chủng tộc
Aryen là chủ trương điên rồ vô đạo,
đặc biệt làm bại hoại đạo Thái
ḥa.
Theo nho giáo, đúng ra là theo nguyên lư
cấu trúc chữ biểu ư, Ḥa là chuyện của …
miệng, biểu thị bằng chữ Khẩu (口)
như đă nói trên.
Ngạn ngữ xác định vai tṛ
của “Khẩu” bằng câu “Bệnh ṭng khẩu
nhập, họa ṭng khẩu xuất” (bệnh vào
đằng miệng, họa ra đằng miệng).
Vế đầu của câu ngạn
ngữ này xin hăy dành cho ngành y tế. Vế sau mới
là điều cần bàn. Vế đầu nhằm vào
chức năng của Ăn, vế sau rơ ràng là
nhằm vào Nói.
Khởi điểm của chữ
H̉A, tức chức năng của Nói chủ yếu
đề cập việc…lời qua tiếng lại.
Ngày nay th́ nói bao gồm chức năng khá rộng răi
của báo in, báo nói, báo h́nh, báo mạng… Mầm mống
của H̉A bắt nguồn từ đó, mà của
BẤT H̉A cũng bắt nguồn từ đó.
Chữ H̉A không thể lùi xa chữ
THUẬN. Bản chất của H̉A là thuận theo
đối tượng. Có đồng thuận th́
mới ḥa hợp được. T́m được
sự đồng thuận giữa vợ chồng th́
“tát bể Đông cũng cạn”. Đó là kinh
nghiệm, là túi khôn ngh́n đời của loài
người. Trong cuộc sống thường ngày,
không ít người cạn nghĩ, cho rằng không
thuận với người khác th́ mới nổi
trội hơn, mới độc đáo hơn,
mới có khả năng khống chế, áp đảo
hơn và họ ngây thơ cho rằng đấy là
bản lĩnh đích thực của đấng
trượng phu. Ư nghĩ ấy chỉ phù hợp trong
lĩnh vực t́m ṭi, nghiên cứu, phát minh, sáng chế
chứ không thích hợp với đạo cư
xử, bởi sự hằng tại của vạn
vật phải tuân theo đạo Thái ḥa. Trạng Tŕnh
Nguyễn Bỉnh Khiêm ở thế kỷ XVI đă
tạo nên cụm từ “Thái ḥa vũ trụ”
để xác định nguyên lư hằng tại
ấy.
Chữ H̉A chỉ phát huy giá trị
khi nó thuận theo cái Hay, cái Đúng. Thuận theo cái sai
th́ chỉ là Hùa. Hùa có âm gần gũi với Ḥa, có
lẽ nó là mặt trái của H̉A. Những phần
tử về hùa luôn luôn không phải là tuân đạo
Thái ḥa một cách chân t́nh mà là kẻ lười suy
nghĩ hoặc chỉ chăm suy nghĩ theo
hướng lợi dụng, lạm dụng ích kỷ
hại nhân.
Túi khôn dân gian đă dành cho kẻ
về hùa những lời miệt thị như “theo
đóm ăn tàn”, “theo voi ăn bă mía”. Do đó, Ḥa
phải dựa trên sự chọn lựa, cân nhắc
đắn đo, có lúc ḥa với người khác
nhưng có lúc phải thuyết phục người
khác Ḥa với ḿnh khi lập trường của ḿnh
trong sáng hơn, hợp đạo lư hơn, bởi
lẽ biến âm của H̉A là HUỀ, không ai kém thế
hay thắng thế ai.
Kẻ đánh giá cao tinh thần Thái
ḥa là kẻ hiếu ḥa. Đối lập với
kẻ hiếu ḥa là kẻ hiếu thắng tức
hiếu chiến. Kẻ hiếu thắng quan niệm
cuộc đời là trường tranh đấu,
chỉ có thắng hay là chết. Kẻ hiếu thắng
miệt thị kẻ chủ ḥa là chủ bại.
Họ không chịu quan sát quanh ḿnh là kẻ hiếu ḥa
thường sống thọ hơn, ngũ tạng
ổn định hơn. H̉A có vẻ lép vế
trước cuộc đời (nhưng thâm tâm kẻ
chủ ḥa lại thấy ḿnh thắng thế nên không
cảm thấy thất bại, mà c̣n tự hào hơn,
chính điều này tạo nên bản lĩnh và nghị
lực cho kẻ hiếu ḥa), chính kẻ hiếu ḥa
mới là kẻ thắng lợi cuối cùng. Lăo Tử
quan niệm “hậu kỳ thân nhi thân tiên, vong kỳ
thân nhi thân tồn” (đặt thân ḿnh phía sau th́ thân
mới lên phía trước, đặt thân ḿnh vào nơi
mất th́ thân mới c̣n - Đạo Đức Kinh).
Chính v́ thế Lăo Tử đă tự hào: “Ta có ba vật
quư báu, một là hiền lành, hai là tiết kiệm , ba
là không dám vượt lên trước thiên hạ” (Ngă
hữu tam bảo, nhất viết Từ, nhị
viết Kiệm, tam viết Bất cảm vi thiên
hạ tiên - Đạo Đức Kinh). Kẻ hiếu
thắng chắc sẽ bĩu môi chê bai lời phát
biểu kém khí thế nọ của Lăo Tử, chẳng
qua v́ suy nghĩ hời hợt, chủ quan cho rằng
đă “hiếu” tất phải “thắng” mà không
nghĩ rằng may ra cũng chỉ thắng một
cách phiếm định nhất thời, khó duy tŕ cho
bền vững, lâu dài, ngay với kẻ lập
được kỷ lục Guinness ! Nh́n chung kẻ
hiếu thắng cho dù đạt được
kết quả mỹ măn th́ sự đắc ư nhất
thời ấy không thể nào bù đắp cho sự lo
lắng nơm nớp thường trực cùng
chấp nhận biết bao thiệt hại lớn lao
khôn lường khi kỷ lục nọ bị
vượt qua.
Có lẽ nhân vật tuân giữ
đạo Thái ḥa xuất sắc nhất, đạt
thành quả mỹ măn nhất mọi thời là Gandhi
(1869-1948) của Ấn Độ. Giành độc lập
cho một tổ quốc mênh mông 3.600.000km2 mà không
hề dùng đến súng đạn bom ḿn, không dụ
dỗ khích lệ hi sinh xương máu anh hùng nghĩa
sĩ tương xứng với số nạn nhân
của bao nhiêu dân tộc nhỏ bé khác, có lẽ
đáng cho là trường hợp duy nhất, không
tiền khoáng hậu trong lịch sử loài
người. Trong khi đó, một nước nhỏ
như Campuchia đă phải đánh đổi một
phần ba dân số cả chính nghĩa lẫn phi
nghĩa cho nền độc lập nước ḿnh.
Tuy trên thế giới vẫn
xảy ra nơi này nơi khác bom rơi đạn
nổ, bắt cóc, chặt đầu làm rạn
nứt đạo Thái ḥa nhưng sự xâm hại
đạo Thái ḥa cũng không thể xóa đi
được sự hằng tại của
đạo nọ. Trong những cuộc chiến tàn
khốc, vẫn có xen vào những lúc…Mặt trận
phía Tây vẫn yên tĩnh (tên một tác phẩm).
Mọi sự gây hấn chỉ là những cơn
rồ dại tức khí nhất thời khó thể
kiềm chế. Chữ H̉A mới thực sự là chân
lư của sự sống và cũng là điều
kiện tiến hóa của nhân loại.
Bàn về chữ H̉A, sách Trung dung
đă đi sâu hơn vào ư nghĩa triết lư của
chữ ấy:
-
Hỉ nộ ai lạc chi vị phát
vị chi TRUNG, phát nhi giai trúng tiết vị chi H̉A.
Trung dă giả, thiên hạ chi đại bản dă, Ḥa
dă giả, thiên hạ chi đạt đạo dă. Trí
TRUNG H̉A, thiên địa vị yên, vạn vật
dục yên. (Trung dung)
Mừng giận buồn vui chưa
phát ra gọi là TRUNG, phát ra đúng dịp gọi là H̉A.
Trung là gốc lớn của thiên hạ, Ḥa là sự
đắc đạo của thiên hạ. Đạt
đến mức TRUNG H̉A thỏa đáng th́ trời
đất ổn định, muôn vật sinh sôi.
Chữ H̉A của Trung dung nhấn
mạnh sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa tâm hồn chân chính với vũ trụ
ngoại tại. Niên hiệu Quang Trung (sáng tỏ cái
trung) được đặt theo tinh thần trung ḥa
này. Đó là kết quả của những tư duy sâu
sắc của các nho gia lớn đương thời
đang phục vụ cho triều đại Tây Sơn
như: Nguyễn Thiếp (La Sơn phu tử), Đ́nh
nguyên Nguyễn Thế Lịch, các Tiến sĩ Phan Huy
Ích, Ngô Th́ Nhậm….
Như vậy đạo Thái ḥa không
chỉ là nhu cầu của đối nhân xử
thế mà c̣n là sự ḥa hợp của tiểu vũ
trụ con người với đại vũ trụ
Tự nhiên.
Nho gia đề cao đạo Thái
ḥa có thể coi là một thông điệp vô cùng lớn
lao gởi đến nhân loại mọi thời.
Mọi hướng tư duy đều phải t́m
về nó để gột rửa bao nhiêu tham vọng
xấu xa, đen tối làm lu mờ đi tính bản
thiện của con người. Đấy là tinh
thần yêu ḥa b́nh chân xác nhất, trong sáng nhất,
đắc đạo nhất.
Nhân vật rao giảng đạo
Thái ḥa rất đáng ngưỡng mộ có lẽ là
Vương Duy (699-759) đỗ Trạng nguyên (c̣n
được suy tôn là Nam tổ của Họa phái
Trung quốc) qua bài Quan liệp (Xem cuộc săn).
Đấy là quang cảnh một đàn tướng
sĩ hùng hổ xông xáo phóng ngựa vùn vụt, cung tên
rít gió rồi rầm rộ kéo về doanh trại bao la
ṭa ngang dăy dọc của đạo quân Chu Á Phu
đời Hán, bỏ lại đằng sau họ
cảnh vật im ĺm lặng lẽ mênh mông:
Hồi
khan xạ điêu xứ,
Thiên
lư mộ vân b́nh.
Vương
Duy
Quay
nh́n vùng săn bắn,
Muôn
dặm mây chiều giăng.
Thái
Trọng Lai dịch
Chính thứ cảnh trí êm đềm
lặng lẽ ấy mới thực là cảnh trí
tự nhiên của vũ trụ, c̣n những cuộc
chiến (săn bắn) chỉ là dạng cuồng
hứng “xả stress” nhất thời của loài
người mà thôi. Bản chất vũ trụ là
sự Hằng tại của Thái ḥa.
PHẦN
THỨ NĂM
CHỮ NHÂN TRONG LUẬT HẰNG
TẠI CỦA
VŨ TRỤ
Trong văn tự biểu ư của
Trung Quốc, chữ NHÂN (仁)
được cấu tạo theo bộ Nhân (人)là
người, bộ phận vừa chỉ âm
đọc vừa mang ư nghĩa (hài thanh kiêm hội ư).
Phần c̣n lại là chữ Nhị (二) có
nghĩa là Hai. Ngụ ư ở đây là khi đă có hai
người th́ đôi bên cần phải xử sự
với nhau trên cơ sở của đức Nhân
(Bởi lẽ theo Aristoteles (384 -322 trCN), triết gia
Cổ Hi Lạp th́ “Người là loài vật bầy
đàn” thành thử Nhân là đức tính hằng
tại cốt yếu). Khi nào c̣n con người,
tất phải c̣n cần đến chữ Nhân
mới duy tŕ được bầy đàn.
Khổng Tử bảo với
học tṛ: “Ngô đạo nhất dĩ quán chi ”
(Đạo lư của ta là một nhưng bao trùm
tất cả - Luận ngữ). Đám đệ
tử ngơ ngác mới nhờ Tăng Tử giảng
giải, Tăng Tử bảo: “Phu Tử chi
đạo, TRUNG THỨ nhi dĩ hĩ” (Đạo
của thầy là ngay thẳng và dung thứ mà thôi
vậy - Luận ngữ). Vậy cốt lơi của NHÂN
là TRUNG THỨ (NHÂN = TRUNG + THỨ).
Như vậy, chỉ cần
một chữ NHÂN là đủ sức tác động
lên Ngũ luân, Ngũ thường, Tam ṭng Tứ
đức, là những đầu mối của
đạo làm người.
Ngũ luân là năm mối liên
kết nền tảng cho xă hội quốc gia gồm:
1.
Vua tôi.
2.
Cha con.
3.
Anh em.
4.
Chồng vợ.
5.
Bạn bè
Quan hệ vua tôi đ̣i hỏi vua
phải sáng suốt, tôi phải tài năng (minh quân
hiền thần). Hai phía phải có ḷng nhân th́ mới
sáng, mới hiền được. Nếu đă
bất nhân th́ chỉ thành hôn quân, ám chúa, nịnh
thần, gian thần chứ không thể đạt
được thành quả tuyệt vời của
mối quan hệ.
Tuy nhiên, điều cốt yếu
là cả vua lẫn tôi phải có ư thức giúp nhau hoàn
thiện tư cách mỗi bên chứ không phải hùa
nhau làm điều vô đạo. Nếu một bên gây
điều tệ hại th́ bên c̣n lại phải
đánh giá và quyết tâm xử sự theo đạo
lư, gác bỏ mọi hệ lụy để một
ḷng v́ dân v́ nước, sẵn sàng triệt bỏ
thẳng tay kẻ tồi tệ. Đó là lư do vua
Kiệt bị đi đày, vua Trụ bị lật
đổ. Mạnh Tử bảo hai vua ấy tàn
hại dân lành nên đă trở thành kẻ thất phu,
thành thử triệt bỏ họ chỉ là trừ
bỏ kẻ thất phu chứ không phải triệt
bỏ ông vua chân chính.
Vua chúa ở các triều đại
khác trong lịch sử một khi bị triệt
bỏ cũng cùng lư do ấy. Họ không c̣n là minh quân
nữa và họ phải trả giá. Vấn đề
ở đây là kẻ “thay Trời làm đạo lư”
(thế thiên hành đạo) phải là hiền thần
chứ không phải gian thần, v́ quốc dân chứ
không v́ quyền lợi bản than hay bè phái.
Trong quan hệ cha con th́ cha phải
hiền từ, con phải hiếu thảo (phụ
từ tử hiếu). Chính đức NHÂN đă tác
động nên các tính cách ấy. Nếu một ông bố
dơng dạc dạy con theo cái kiểu:
Con
ơi, học lấy nghề cha
Một
đêm ăn trộm bằng ba năm làm.
Trong trường hợp ấy, con
không can bố là bất hiếu, là trái đạo v́
để bố ḿnh đánh mất nhân cách, làm loạn
cho mối quan hệ cha con bởi trong gia đ́nh,
kẻ làm cha phải có thái độ nghiêm túc
để giữ giềng mối gia đ́nh, nêu
gương tốt cho con cái.
Quan hệ anh em đ̣i hỏi người
anh phải thân thiện, tôn trọng em, coi em như
bạn ḿnh. Người em phải quư anh, cung kính anh
tuyệt đối (huynh hữu đệ cung) không
được xử sự “cá đối bằng
đầu”, cho rằng ai cũng đều do bố
mẹ sinh ra cả.
Trong xử sự anh em, từ
ngữ “quyền huynh thế phụ” ngụ ư là
tạm dùng anh thay cha, tức cách xử sự theo
quyền biến chứ không theo quyền hành và trong
t́nh nghĩa vẫn là “huynh hữu đệ cung”.
Nếu quả là cần phải đôn vai anh lên
thế cha tất phải gọi là huynh quyền
thế phụ mới thuận chiều ngữ pháp
như trong các từ thông dụng dân quyền, nữ
quyền.
Chữ NHÂN phải bao trùm quan hệ
này tích cực hơn hết, nếu thiếu NHÂN, vô
số tệ nạn xảy ra ảnh hưởng
nặng nề đến gia đ́nh, họ hàng và xă
hội.
Quan hệ chồng vợ đ̣i hỏi
chồng phải đủ tŕnh độ điều
hành, uy tín lănh đạo, nêu ra đường lối
cư xử đúng đắn, việc làm cần
thiết, vợ phải ngoan ngoăn chấp hành (phu
xướng phụ tùy) nếu gặp phải
người chồng bất nhân, đổ
đốn, dám dạy con “học lấy nghề cha”
như trên và người vợ ngoan ngoăn chấp hành
theo tư cách ṭng phạm là hỏng. Chữ NHÂN
phải can thiệp mạnh, phải bao trùm cho kỹ
mối quan hệ này “đạo người quân
tử mở mối ở đạo chồng vợ”
(quân tử chi đạo, tạo đoan hồ phu
phụ - Trung dung).
Trong đạo chồng vợ chữ NHÂN cũng
kèm theo chữ H̉A ở phần II mới phát huy hết
chất lượng cuộc sống chung.
Luân thứ năm trong Ngũ luân là
bè bạn. Nó bị xếp hạng cuối cùng nhưng
thực chất nó lại chi phối toàn bộ sinh
hoạt, giao tiếp của loài người. Đă có
người dựa vào kinh nghiệm phát biểu
rằng: “Trong cuộc sống, người ta thà không
có vợ chứ không thể không có bạn”.
Thật ra, trừ quan hệ anh em có
mang chữ Hữu (huynh hữu đệ cung) nhưng
các mối quan hệ kia (vua tôi, cha con, vợ chồng)
cũng cần rất nhiều đến tinh thần
hữu ái (t́nh yêu bạn bè). Các đối tượng
trên có coi nhau như bạn th́ mọi sự mới hoàn
hảo, mới nhất trí, mới phát triển hài ḥa.
Trong quan hệ bè bạn, ḷng tin
cậy nhau là cơ sở tất yếu. Những
người đa nghi, cẩn trọng họ không
cần đến bạn để pḥng chuyện tai hại.
Khi đă bất tín, t́nh bạn không thể tồn
tại một cách chân thực. Kẻ bất nhân th́
chẳng mong ǵ giữ chữ TÍN, chính tính cách mong manh
ấy cho nên tuy bạn bè là thứ không thể
thiếu nhưng lại rất dễ bất ḥa,
dễ tan vỡ, có lẽ v́ vậy mà nó bị xếp
vào hạng cuối của ngũ luân.
Bên cạnh Ngũ luân c̣n có Tam
cương. Nho giáo coi Ngũ luân là đạo trời,
Tam cương là đạo người. Có lẽ
người ta gọi ngũ luân ngũ thường
nhưng có lúc người ta cũng gọi Tam
cương Ngũ thường để chỉ
cốt tủy của Nho giáo.
Tam cương là ba dây giềng
của tấm lưới quốc gia, xă hội. Có dây
giềng ấy th́ các dây lưới có chỗ bu bám và
lưới mới hữu dụng. Mất dây giềng
cả tấm lưới trở nên xộc xệch, vô
dụng. Vua là dây giềng của bề tôi (quân vi
thần cương). Các vua Kiệt, Trụ đă làm
mất nhà Hạ, nhà Thương v́ không giữ
vững “dây giềng” ấy. Cha là dây giềng cho con
(phụ vi tử cương). Nếu cha “dạy” con
theo kiểu hài hước như trên th́ gia đ́nh
trở thành…chiếc lưới rách. Trong đạo
vợ chồng th́ chồng là dây giềng của
vợ (phu vi thê cương) do đó mới có cụm
từ “phu xướng phụ tùy”.
Ngũ thường là năm
đức tính thường xuyên cần đến
trong giao tiếp. Thứ tự quan trọng của
năm đức ấy là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Tuy nhiên Ngũ thường không tách biệt mà luôn kèm
cặp ăn ư nhau: kẻ bất Nhân tất cũng
bất Nghĩa, bất Tín, vô Lễ, v.v…
Chữ Nhân đă bàn nhiều, ở
đây xin bàn kỹ chữ Nghĩa.
Mạnh Tử định nghĩa:
“Nghĩa dă sự đương vi” (Nghĩa là
việc nên làm). Giúp cái ăn cho người đói, bênh
vực kẻ yếu bị hiếp đáp, chữa
trị người đau ốm, thương tích, v.v…
đều là việc nên làm, và làm như thế là làm
Nghĩa. Đền đáp ân huệ kẻ ra tay cưu
mang ḿnh lúc sa cơ lỡ vận đấy là báo đền
ơn nghĩa, là ăn ở có t́nh nghĩa, không làm
như vậy là kẻ bất nghĩa. Đỉnh cao
của nghĩa là tinh thần hiệp nghĩa, xả
thân cứu người “giữa đường
thấy sự bất b́nh, Làm cho đổ quán xiêu
đ́nh mới nghe”.
Lễ là cái làm cho con người
trở nên có tŕnh độ cao hơn mọi loài.
Chữ LỄ (禮)
cũng cấu tạo theo phép hội ư, gồm có
bộ Thị (示) có
nghĩa là răn bảo, răn dạy, phần c̣n
lại là chữ Phong (豊) có
nghĩa là dồi dào (phong phú). Toàn chữ Lễ
ngụ ư nhắc nhở điều quan trọng là
muốn con em biết lễ độ, lễ phép.
Người ta phải răn dạy bảo ban
thật nhiều và thật nhiều mới đạt
kết quả như ư. Đừng nghĩ rằng
cứ buông lỏng mặc t́nh lớn lên tự nhiên con
em ḿnh sẽ tự biết đạo cư xử
nhờ bắt chước người khác. Khá
nhiều người đă có quan niệm đúng
đắn, sự quan tâm thường xuyên ấy
của chữ LỄ nên từ thuở con em c̣n thơ,
người ta đă tập cho trẻ khoanh tay, cúi
đầu, “ạ”, v.v... Tuy nhiên cũng không ít
người coi việc dạy chữ Lễ kiểu
ấy, đơn giản chỉ là tập vài tiết
mục ăn khách để tŕnh diễn. Do đó, lúc
bé trẻ có vẻ ngoan ngoăn có thừa, nhỉnh lên
một chút là lắm bậc cha mẹ có vẻ khoái chí
một cách bệnh hoạn khi thấy con ḿnh mới tí
tuổi đầu đă đạt tŕnh độ cao
về chửi thề, văng tục… chả chịu
kém ai.
Chữ LỄ thường đi kèm
với chữ NHƯỢNG. Người giữ
Lễ luôn tôn trọng người khác trong giao
tiếp. Người ta gọi người ḿnh giao
tiếp là quư khách, quư vị, quư công tử, quư tiểu
thư, v.v… và tự xưng là thảo dân, hạ quan,
tiện nội, tệ xá, v.v… Kẻ giữ lễ
phải biết chào quốc kỳ, cử quốc ca
khi làm lễ. Đến cơ quan nhà nước
phải xuống xe, tắt máy, không nhấn c̣i, v.v…
Không lễ nhượng, xă hội
sẽ xô bồ, hỗn độn, mất văn hóa
văn minh. Kinh Thư gọi t́nh trạng ấy là
“gần với chim muông” (cận ư cầm thú) cần
được khai tử.
TRÍ cũng có công dụng như
Lễ trong việc thể hiện nhân cách. Kẻ
mất trí, cuồng trí mặc nhiên bị loại
khỏi cuộc sống, cộng đồng, không
bị chế tài về hành vi của họ. Khi không c̣n
khả năng suy nghĩ, con người đă đánh
mất tính người, chỉ c̣n lại thú tính.
Kẻ côn đồ, kẻ cậy quyền cậy
thế để hiếp đáp người khác,
thực chất là những kẻ thuộc loại mất
trí ấy.
Sách Luân lư giáo khoa thư trong bộ
sách giáo khoa bậc tiểu học do nhóm Trần
Trọng Kim biên soạn có bài viết thú vị kể
chuyện một công tử dạo phố cùng thầy
học. Gặp một đứa trẻ rách
rưới chắp tay vái chào, vị thầy học
nọ trịnh trọng cúi đầu chào lại. Công
tử sửng sốt hỏi:
-
Sao tiên sinh vái chào một đứa
trẻ hèn hạ như vậy ?
Vị thầy học điềm
đạm đáp:
-
Ta chào nó để khỏi bị
mang tiếng là ta không lễ phép bằng nó.
Câu trả lời đơn giản
mà vô cùng thâm thúy.
Sách Nam
Hoa Kinh của Trang Tử có câu: “kẻ hoàng vương
sợ ǵ lễ nghi” ám chỉ một sự thật tâm
lư là lắm kẻ tự cho địa vị ḿnh là chí
tôn, hiên ngang “đạp lên lễ phép”, ngông nghênh tự
măn, tự đắc, tự cho như thế mới
tỏ rơ oai quyền, buộc mọi người
phải kiêng nể mà không có ư thức bổn phận
phải nêu gương tốt của ḿnh, không hề
biết rằng chính ḿnh mới là kẻ dễ bị
quần chúng săm soi, xét nét nhất, chỉ trích
nhất, cần giữ lễ nghiêm ngặt nhất.
Phải là người TRÍ như
vị thầy học nọ mới có lối xử
sự phải cách, vừa giữ uy tín cho ḿnh, vừa
dạy đạo lư cho người học tṛ
quyền quư của ḿnh.
Chữ TÍN đứng vị trí
cuối bảng Ngũ thường có lẽ v́
phạm vi tác động của nó có tính lỏng
lẻo, phiếm định thường bị hy sinh
nhất nên chỉ dành cho mối liên quan của
cuối bảng Ngũ luân, tức dành cho đạo
cư xử bạn bè.
Chữ TÍN (信) cũng
cấu tạo theo phép hội ư của văn tự
Trung Quốc.
Phía trái chữ Tín là bộ Nhân (人)
chỉ Người. Phía phải là chữ Ngôn (言)
nghĩa là lời nói, gộp nghĩa hai bộ phận
ấy là Lời-nói-của-người hoặc
Lời-nói-với-người. Người nói phải
nói thật ḷng ḿnh mới khỏi bị người
nghe nghi ngờ. Không ít người tự biết là
lời ḿnh chẳng đáng tin cậy mười
mươi thế nhưng vẫn nói bừa, do tự
tin lố bịch rằng lời ấy vẫn lọt
tai người khác v́ họ “ngu dại” hơn ḿnh !
T́nh h́nh này lộ rơ trong ngôn ngữ quảng cáo hàng hóa.
TÍN là điều kiện cơ
bản trong nghĩa bạn bè nhưng bạn bè vốn
có nhiều cấp độ nên chữ TÍN cũng co
dăn.
Sống sau Khổng Tử ngót hai
thế kỷ, nhân loại đông đúc hơn,
Mạnh Tử (372 - 289trCN) nâng chữ Tín lên tầm
vĩ mô, coi đấy là động cơ chủ lực
của cuộc sống. Cụ Mạnh phát biểu:
“Người mà không có đức TIN th́ không biết
tích sự ǵ. Xe lớn không trục, xe nhỏ không càng
th́ lấy ǵ đi được” (Nhân nhi vô tín,
bất tri kỳ khả dă. Đại xa vô nghê,
tiểu xa vô ngột, kỳ hà dĩ hành chi tai ? -
Mạnh Tử)
Như vậy, mọi sự trên
đời đều vận hành trôi chảy là nhờ
ở đức TIN. Nói cụ thể, đấy là
ḷng Tự Tin. Kẻ không tin vào bản thân là rơ ràng không
thể đạt được bất cứ thành quả
ǵ. Nói cách khác, tin vào bản thân cũng cần có ḷng
Nhân, biết thương ḿnh cái đă. Nếu tự
khinh ghét ḿnh đến độ không thể tin
cậy được th́ quả là…bất nhân. Bởi
kẻ có tính khi như vậy, th́ đừng ḥng
kẻ ấy tử tế với cả những
người thân yêu t́nh nghĩa.
Tăng Tử cắt nghĩa NHÂN là
TRUNG THỨ. Vậy hai chữ ấy nghĩa là ǵ ?
Theo cấu trúc biểu ư của
văn tự Trung Quốc, TRUNG (忠)
được biểu hiện hai ư: ư thứ nhất
là chữ Trung (中) có
nghĩa là ở trong, ở giữa, phía dưới là
chữ Tâm (心) có
nghĩa là Tim, là Ḷng(chữ Tâm tượng h́nh quả
tim được cách điệu).
TRUNG (忠) là
chuyện giữa quả tim, không vương vấn,
không chịu sự điều phối của bất
cứ thứ ǵ ngoài quả tim, ngụ ư thật ḷng
triệt để, một cách cứng cỏi, là
người ngay thẳng (trung trực). Kẻ
hưởng bổng lộc của vua, cụ thể
là nhận lương nhà nước, tất phải
ngay thẳng với vua, với nước, không a dua,
xu nịnh để chiều ḷng, hưởng lợi.
Giữa người với người, TRUNG là ăn
ở ngay ḷng, lời nói đi đôi với việc
làm.
Chữ THỨ (恕)
gồm chữ NHƯ (如)
(bằng nhau) và chữ Tâm (心). Tha
thứ, dung thứ, lượng thứ đều có
nghĩa ấy. Thứ là làm đúng như ḷng ḿnh
(như tâm) mà ḷng ḿnh thường rất dễ dăi,
khoan dung đối với bản thân, chỉ nghiêm
khắc khi đối với người khác. Vậy,
đối với người khác cũng dễ dăi tha
thứ như đối với bản thân,
đấy là thực hiện đúng tinh thần
chữ THỨ.
Người giữ đạo NHÂN
là người thật ḷng và rộng lượng.
Kẻ dùng lời nói để lấy ḷng người
khác, suy cho cùng là kẻ bất nhân, ít nhiều có manh tâm
lợi dụng ǵ đó, ngay từ đầu họ
đă tỏ ư khinh thường đối
tượng mà họ phỉnh nịnh lấy ḷng.
Cả TRUNG lẫn THỨ
đều cần đến cái Tâm trong sáng, ngay
thật. Người có cái Tâm ấy là người
NHÂN.
Ngoài đạo luân thường, nho
gia c̣n chú trọng tám chữ Hiếu–- Đễ – Trung
- Tín -–Lễ - Nghĩa - Liêm - Sỉ.
Người Trung Quốc gọi
kẻ xấu xa, hư hỏng, vô đạo bằng
cái tên ngộ nghĩnh là lăo “Vương Bát” nghe có
vẻ sang sang, thân thuộc gần xa ǵ với các tên tuổi
lớn như Vương Bột, Vương Hi Chi,
Vương Duy, v.v.. nhưng kỳ thực chữ
Vương dùng gọi hạng vô đạo là cách
vận dụng đồng âm của chữ “Vong” có
nghĩa là “mất”, ngụ ư kẻ ấy đánh
mất tám chữ quan trọng cho nhân cách đă nêu trên.
Các chữ Lễ, Nghĩa, Trung, Tín
đă có bàn nhiều ở các phần trên, ở đây
chỉ bàn thêm các chữ Hiếu, Đễ, Liêm,
Sỉ.
Chữ HIẾU (孝)
được đánh giá cao nhất v́ nó dọn
đường cho chữ Trung về sau.
Về cấu tạo nó cũng theo
phép hội ư, phần trên là bộ Lăo (老),
phần dưới là chữ Tử (子)
ngụ ư là trẻ con phải phụng sự
người già (ông, bà, cha, mẹ). Nói chung, Hiếu là
đạo của kẻ làm con. Kẻ đă bất
hiếu khó mà có đức tốt khác. Hiếu
đứng đầu mọi đức hạnh (Bách
hạnh hiếu vi tiên). Lư Văn Phức (1785-1849)
đă diễn ca điều ấy: “Chữ hiếu
hạnh vuông tṛn một tiết - Th́ suy ra trăm
nết đều nên- Nhị thập tứ hiếu
diễn ca”.
Khi các môn đệ hỏi về
đạo hiếu thảo, Khổng Tử trả
lời mỗi người một cách, chủ yếu
là tùy hoàn cảnh họ. Kẻ bất cẩn để
thân thể ḿnh trầy xướt đau ốm là
bất hiếu với cha mẹ giàu sang, kẻ ham làm
ăn lo lắng cho vợ con, bỏ quên việc
cấp dưỡng cha mẹ nghèo khó hoặc nuôi
nấng chiếu lệ, thiếu sự ân cần tôn
kính là coi cha mẹ ngang với chó ngựa, bất
hiếu kiểu ấy càng tệ hại hơn là không
cung kính phụng dưỡng. Nho gia quan niệm kẻ
có khả năng kiếm tiền nuôi cha mẹ mà không
dùng khả năng ấy để báo hiếu là
điều đáng trách. Huỳnh Thúc Kháng đă
viết về chí sĩ Trần Quư Cáp, khi nhận
chức giáo thụ phủ Ninh Ḥa (Khánh Ḥa):
Làm quan v́ mẹ há v́ tiền.
Và cụ Huỳnh cũng đă
từng tự phê khá thành khẩn:
Nợ
bầy đeo đuổi mấy năm qua,
Cha bỏ
nằm yên một xó nhà.
Cụ Huỳnh đă trả nợ
cho nước, cho dân, đặt chữ Trung trên
chữ Hiếu, đấy là việc một chí sĩ
xuất thân khoa bảng như Cụ không có quyền
làm khác, mặc dầu từ tâm khảm Cụ luôn luôn
ray rứt về tội bất hiếu của ḿnh khi
không nhận bổ dụng chức Tuần vũ.
Nếu nhận là phản bội chí hướng duy tâm
của... nợ
bầy.
Đặc biệt nho gia coi
chuyện không sinh con trai nối dơi tông đường
là tội bất hiếu lớn nhất (vô hậu vi
đại). Quan niệm này tạo nên kẽ hở khủng
khiếp cho tục đa thê, rẻ rúng nữ giới.
Ngoài ra, Nho gia c̣n quan niệm trọn
đời con cái phải thuộc quyền sở
hữu tuyệt đối của cha mẹ, không dám
hủy hoại thân thể, tóc da mới là hiếu tột
bậc (Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu,
bất cảm hủy thương, hiếu chi chí dă -
Mạnh Tử ). Đấy là lư do gây cản trở
cho việc phổ biến Vè cắt tóc của phong trào
Duy Tân năm 1905 hay khiến nhà chí sĩ Phan Bội Châu
đành cố t́nh “giả điếc” khi bác sĩ
Trần Đ́nh Nam gởi thư ngỏ kêu gọi
cụ Phan hăy tỏ thái độ mỉa mai khinh
bỉ phiên ṭa của cường quyền bằng cách
tiến hành nghi thức Hara-kiri để thể
hiện một kết cuộc hoành tráng mỹ măn cho 20
năm bôn ba trôi nổi v́ nước quên ḿnh.
Quan niệm này từng thể
hiện ở đôi câu đối của Binh bộ
Thượng thư Tôn Thất Thuyết viếng
cuộc tuẫn tiết của Hà Ninh Tổng
đốc Hoàng Diệu năm 1882 khi thất thủ
thành Hà Nội lần thứ hai:
-
Nhất tử thành danh, tự
cổ anh hùng phi sở nguyện.
-
B́nh sinh trung hiếu, đương
niên đại cuộc khởi vô tâm.
(Thái Trọng Lai dịch: Chết
một cách vinh quang là chuyện anh hùng nào mong mỏi?
Sống cả đời trung hiếu, gặp cơn
quyền biến há từ nan ?)
Ngụ ư ở đây là tuy chọn
cái chết tiếng tăm như thế nhưng thâm
tâm họ Hoàng không coi đấy là có giá trị
nhất của nho gia (chưa xứng đáng chí hiếu)
nhưng do cả đời sống theo đạo
trung hiếu, gặp cảnh ngộ ấy tất không
thể không hành động thế ấy.
Chữ ĐỄ (悌)
cũng cấu tạo theo phép hội ư, bên trái là bộ
Tâm (忄) có
nghĩa là ḷng dạ, bên phải là chữ Đệ (弟) có
nghĩa là em. Cách cấu tạo ngụ ư khá rơ: phải
thật ḷng giữ thân phận em út, không nói năng
kẻ cả, át giọng người khác, tức là
không quen thói chơi trội, chơi ngông.
Sách Luân lư giáo khoa của nhóm Trần
Trọng Kim, Đặng Đ́nh Phúc và Đỗ
Thận giảng
…
chữ Đễ nghĩa là nhường
Nhường
anh, nhường chị lại nhường
người trên.
Ghi
ḷng tạc dạ chớ quên,
Con em
phải giữ lấy nền con em.
Như vậy, chữ Đễ là
biến tấu của chữ LỄ.
Một thực trạng chua chát là
ngày nay HIẾU ĐỄ có vẻ như đang
muốn đảo chiều, cha mẹ có vẻ
…chăm lo hiếu đễ với con cái ḿnh, nơm nớp
cho con ngoan lẫn con hư cha mẹ vâng chiều
triệt để, thỏa măn mọi đ̣i hỏi
của một vài “bạo chúa” trong gia đ́nh nhưng
vẫn dễ bị chúng hờn dơi oán trách, yêu sách,
trấn lột. Nhiều cha mẹ cư xử
đạo ấy với con cái, toàn tâm toàn ư cung
phụng, nhường nhịn con cái tối đa,
đặc biệt là trong giới cô chiêu cậu ấm
từ những miền quê xa xôi về du học nơi
đô thành hoa lệ. Nhà quân phiệt Phùng Ngọc
Tường ở Trung Quốc, đồng thời
cũng là nhà văn nghiệp dư đă có một
truyện ngắn nổi tiếng, kể một
chuyện có giá trị hiện thực khá cao về t́nh
trạng ấy.
(Chuyện kể về một cô gái
quê lên đô thành ăn học. Cô hăm hở đua
đ̣i thời thượng nghĩ bố mẹ ḿnh
đều là những chiếc kho vô tận v́ chưa
thấy họ phàn nàn than thở ǵ. Một bạn trai
hâm mộ nếp sống thoải mái ấy, theo nàng
về quê toan tính chuyện lâu dài.
Nhác thấy đôi trai tài gái sắc
lộng lẫy xuống xe, một đôi nông dân hom hem,
lem luốc mừng rối rít, chân thấp chân cao
chạy lên đón. Nỗi nhớ nhung bấy lâu làm
mụ mị đầu óc khiến đôi nông dân
nọ phạm sai lầm quá lớn, măi lúc này họ
mới chợt nhận ra th́ đă vô phương
cứu văn. Cả bốn con người sững
sờ như trời trồng, trơ mắt nh́n nhau
cả lúc lâu. Cô gái nhăn nhó cất giọng cáu
gắt:
-
Sao bố mẹ phải làm
đồng ? Tá điền đâu ?
-
Cần ǵ họ nữa ? Ruộng
đất cầm cố cả rồi ! Người
đàn bà lí nhí đáp, mắt cụp xuống.
Cô gái xẳng giọng hơn:
-
Thế sao không cày trâu ? Con Bầu,
con Bĩnh, con Vẽ con Vời đâu cả rồi ?
-
Lần lượt bán cả
rồi. Riêng con Vời mới bán hồi tháng
trước cho con mua sách ǵ đó...
Giọng ông bố thật ngậm
ngùi.
Mua sách ! Cô gái choáng váng thật
sự. Thật ra đấy chỉ là chiếc áo
dạ hội khá đắt tiền. Măi lúc này cô gái
mới sực nhớ chuyện giới thiệu
bạn trai. Cô quay lại, chỉ c̣n kịp nh́n theo
tấm lưng áo xa dần của...người
bạn thân thiết đă trở thành xa cũ).
(T.T.L thuật theo trí nhớ không
chính xác một bài dịch của tạp chí Nam
Phong)
Hai chữ Liêm Sỉ thường
đi cặp kè trong ngôn ngữ hằng ngày như “vô
liêm sỉ”, “bất cố liêm sỉ” nhưng thật
ra hai chữ ấy chỉ hai tính cách riêng biệt.
LIÊM là cực đối lập
với cực Tham. Kẻ liêm là kẻ không tham. Giá liêm
là giá rẻ . V́ lẽ đó, từ xa xưa, khi
việc chọn người làm quan chưa dùng chuẩn
mực khoa cử, triều đ́nh bắt buộc các
quan địa phương có bổn phận chọn
người có hiếu, người liêm khiết tŕnh
lên vua để tuyển dụng. Đấy là một
biện pháp pḥng chống tham nhũng ở tầm xa.
Khi khoa cử ra đời, kẻ đỗ kỳ thi
Hương vẫn c̣n được gọi là
đỗ hiếu liêm theo tinh thần b́nh cũ
rượu mới hoặc b́nh mới rượu
cũ.
Sỉ có nghĩa là hổ thẹn.
Kẻ làm điều đáng hổ thẹn mà không
cảm thấy điều ấy đáng hổ
thẹn bị coi là kẻ vô sỉ.
Những phẩm chất kể trên
là những quy định dành cho nam giới. Nữ
giới c̣n có những quy định khác, liên quan
đến gia đ́nh nhiều hơn,chịu áp chế
nhiều hơn. Đa số trong đám họ chịu
đau khổ triền miên, nếm đủ mùi
bạo lực tinh thần lẫn thể xác bởi
những người bạn đời thường
là vũ phu, vô học, coi mọi thứ hư tật
xấu của ḿnh là một thứ quyền hành mà vợ
con phải biết điều thượng tôn
tuyệt đối.
Do hoàn cảnh xă hội của
thời đại kinh tế lúa nước, vai tṛ
phụ nữ ràng buộc với sinh hoạt gia
đ́nh nên chỉ cần răm rắp phục tùng cha
khi c̣n ở nhà cha mẹ, vâng phục chồng khi
xuất giá và sau khi chồng chết phải tôn
trọng quyết định của con trai (tại gia
ṭng phụ, xuất giá ṭng phu, phu tử ṭng tử).
Giáo điều ấy thật
sự lỗi thời trong cuộc sống thời
đại này, khi xă hội đă công nghiệp hóa, vai
tṛ người phụ nữ được giải phóng
để tham gia lănh đạo đất
nước, có người c̣n có khả năng
điều hành hàng vạn nam giới trong việc tham
gia phát triển kinh tế, v.v…. Đă có lắm
“đấng trượng phu” ngày nay cảm thấy
hạnh phúc khi được vợ thu xếp chu
đáo cho cuộc sống hàng ngày hoặc cảm
thấy tự hào khi được thủ
trưởng nữ giới tin cậy, sử dụng.
Thuyết tam ṭng đă hoàn toàn phá
sản nhưng trong quá khứ, nó giữ ổn
định nhiều thế kỷ cho nền văn
minh lúa nước và cả văn minh lúa ḿ. Nó tham gia
tích cực vào việc bảo vệ và củng cố
nền kinh tế cùng hạnh phúc gia đ́nh. Vô số
quả phụ ở hương thôn tránh khỏi
cạm bẫy của nam giới giàu thủ
đoạn, lạm dụng cảnh ngộ góa bụa
của họ. Mặc dù vậy, ngày nay không mấy ai
coi tam ṭng là bổn phận của nữ giới
nữa.
Thuyết Tứ đức hiện
đang c̣n được tôn trọng, có điều
việc thấm nhuần thuyết ấy có phần méo
mó.
Một số người coi Tứ
đức là thuộc tính tất yếu của nữ
giới Á đông, bất cứ phần tử nào
thuộc phái yếu đều đương nhiên là
có tứ đức, Thị Kính, Thị Màu đều
có sẵn như nhau khỏi cần đào tạo trau
dồi.
Một số người lại
coi Tứ đức là bảng liệt kê 4 đức
ngẫu nhiên, tùy tiện mà không hề quan tâm
đến sự khinh trọng nguyên gốc. Họ coi
Tứ đức là Công - Dung - Ngôn - Hạnh, như
thế là đảo lộn vai tṛ quan trọng của
Tứ đức, vốn được sách Liệt
nữ truyện xếp theo lũy thừa lùi là 1.
Hạnh, 2. Ngôn, 3. Công, 4. Dung. Đức tính
đứng trước quan trọng hơn
đứng sau. Xếp theo thứ tự này mới phù
hợp với câu tục ngữ “cái Nết đánh
chết cái Đẹp” của người xưa
chứ không phải “cái Đẹp đè bẹp cái
Nết” theo thứ tự xếp đặt hài
hước của ngày nay.
Trong quan hệ hôn nhân, Nho giáo c̣n
tạo sức ép cho nữ giới bằng lệ
“Thất xuất” (Bảy trường hợp cho phép
ly dị vợ, chỉ cần thân nhân đồng ư,
bất kể quy định của hương
ước). Bảy trường
hợp đó là:
1.
Bất hiếu (không vâng kính,
phụng dưỡng bề trên).
2.
Vô tử ( không sinh con trai)
3.
Dâm (ngoại t́nh).
4.
Đố (ghen tuông)
5.
Ác tật (bệnh nan y)
6.
Đa ngôn (lắm lời)
7.
Thiết đạo (trộm
cắp).
Người vợ nào phạm
một khuyết điểm trong Thất xuất là
họ hàng nhà chồng xử lư ngay, khỏi cần
đưa đến các cấp thẩm quyền dù chỉ
là cấp làng xă. Cách xếp loại Thất xuất
ấy kể cũng khá ngộ, chứng tỏ
rằng vợ lắm lời cũng đáng ly dị
hơn vợ trộm cắp.
Với đàn ông, đạo lư nho
gia không hề đặt ra sự chế tài thích
đáng nào khi họ hư hỏng, phá hoại gia cang.
Cả bảy tội đáng ly dị ở nữ giới,
nam giới cũng vi phạm không thiếu tội nào
nhưng lại không bị xử lư bằng lệ
Thất xuất, mặc dầu nho gia cũng rất
đề cao sự công bằng thể hiện ở
câu nói của Khổng Tử “kỷ sở bất
dục, vật thi ư nhân” (Điều mà ḿnh không
muốn, chớ đem (điều ấy) làm cho
người khác). Sách Luân lư giáo khoa Trần Trọng Kim
đă nói rơ:
Theo
trong Luân lư giáo khoa
Công
bằng là đạo
người ta ở đời.
Suy
bụng ta ra bụng người
Hễ
ta không muốn, hẳn người chẳng ưa.
Những
điều làm thiếu, lấy thừa,
Hại người, ích
kỷ nên chừa cả đi.
Công
bằng bất cứ điều ǵ,
Ấy
là tính tốt nên ghi vào ḷng.
(Sđd)
Đối với nữ giới,
một giáo điều bị thiên hạ chỉ trích
nhiều nhất nhưng thực sự lại cần
thiết nhất, đó là sự ǵn giữ tiết
hạnh. Nho gia quan niệm “Trai năm thê bảy
thiếp, gái chính chuyên một chồng”. Do tính quan
trọng của giáo điều ấy nên luật
tục cùng hương ước nhiều miền
đă bày ra lắm tập quán hạ nhục nữ
giới thật phủ phàng. Trong khi nam giới “năm
thê bảy thiếp” th́ nữ giới có “luyến ái
ngoài luồng” liền bị “bè chuối trôi sông”,
“diều tha quạ mổ”, cách hành hạ đậm
mùi thú tính. Đối với nữ giới chẳng
may có chồng qua đời, phải ở vậy nuôi
con chứ không được bước thêm
bước nữa, phải như thế mới là
“ṭng nhất nhi chung” (theo một người đến
trọn đời). Nếu trong giai đoạn “theo
một” ấy không xảy ra sự cố tai tiếng
ǵ th́ lúc cao tuổi (măn kinh) có thể được
triều đ́nh, quan chức địa phương
biểu dương xét duyệt ban cho tấm biển
“tiết hạnh khả phong” (tiết hạnh xứng
đáng làm gương cho phong tục). Cách xử
sự này trái với nhu cầu hạnh phúc của
nữ giới, gây nhiều tác hại cho gia đ́nh, xă
hội, nhưng chính đấy cũng lại giữ
an toàn cho gia đ́nh, xă hội giảm bớt số
nạn nhân trẻ người non dạ. Tuy nhiên,
nếu việc đi thêm bước nữa của các
quả phụ ấy tạo nên chỗ dựa vững
chắc cho tinh thần và cuộc sống, đem
lại những lợi ích tốt đẹp cho
những đứa con mồ côi cha. Quan niệm
tiết hạnh tỏ ra vừa có hại lại
vừa có lợi đối với hạnh phúc gia
đ́nh. Nó là con dao hai lưỡi.
Lời hô hào cho đạo công
bằng ấy của cuộc sống h́nh như không
dành đầy đủ cho nữ giới trong xă
hội phong kiến nên mới có cái lệ Thất xuất
nghiệt ngă kém nhân tính kể trên.
PHẦN
THỨ SÁU
Ư THỨC TU NHÂN TÍCH ĐỨC CỦA NHO HỌC
Tam nguyên Nguyễn Khuyến (1875-1910)
kết thúc bài thơ Vịnh tiến sĩ giấy
của ḿnh bằng hai câu:
Hỏi
ai muốn ước cho con cháu,
Nghĩ
lại đời xưa mấy kiếp tu.
Ông Tam nguyên khẳng định
rằng việc vinh quang danh giá của con người
là thành quả của nhiều đời tu nhân tích
đức chứ không thể miễn cưỡng
thực hiện dễ dàng theo tham vọng suông. Muốn
đạt được danh vọng vẻ vang
về sau, con người phải sống đúng
lương tâm, đạo lư, kiềm chế dục
vọng, quên ḿnh giúp đời, v.v.. Ư thức ấy
không phải do ông Tam nguyên phát biểu ngẫu nhiên mà là
nhắc lại ư kiến của thiên hạ nhiều
đời. Đấy là tri thức Hằng tại
của nho gia.
Trong kho tàng truyện kể Việt Nam
có một truyện khá điển h́nh cho thành quả tu
nhân tích đức. Đó là truyện Trạng nguyên Giáp
Hải (1516-1588) (vị trạng nguyên thứ 20 trong
số 55 vị của khoa cử Việt Nam).
Mẹ Giáp Hải là cô gái nghèo mưu
sinh bằng ngôi hàng nước ở bến đ̣ làng.
Một đêm nọ, trời mưa to gió lớn, có
người khách lỡ đường lại gặp
cảm lạnh ngất xỉu trước quán. Cô
chủ quán thương t́nh d́u đỡ vào quán ân
cần săn sóc, buộc ḷng cho nằm chung chiếc
chơng tre duy nhất. Người khách hồi phục
nhanh chóng. Khi chia tay th́ cô chủ quán đă mang thai (có
dị bản chép là người khách qua đời). Ít
lâu sau cô hàng nước sinh Giáp Hải. Lên hai tuổi
ông bị một thuyền buôn qua làng bắt đi
biệt tích. Người mẹ đau đớn khôn
nguôi, cứ ngỡ con ḿnh không may sảy chân chết
đuối.
Giáp Hải được
người chủ thuyền nuôi cho ăn học thành
tài, thi đỗ Trạng nguyên đời Mạc
Đăng Doanh. Có người bảo cho ông biết
ḿnh không phải là con đẻ nhưng người
ấy cũng không nhớ rơ ông ở miền nào.
Hơn hai mươi năm sau, nhân
một dịp đi kinh lư, Giáp Hải ghé chân chờ
đ̣ ở quán nước nọ. Bà chủ quán khóc ̣a
khi nhận ra nốt ruồi son ở chân ông. Ông
hỏi cặn kẽ mọi chuyện rồi mẹ
con nhận nhau trùng phùng đoàn tụ.
Câu chuyện kể nọ không rơ
chứa bao nhiêu sự thực nhưng gẫm ra khá thâm
thúy:
Chính lần “tu nhân” của
người mẹ đơn thân ngày ấy đă
tạo nên cậu bé khôi ngô Giáp Hải rồi vẻ
khôi ngô ấy xui Giáp Hải bị bắt cóc năm hai
tuổi khiến cậu ta có cơ hội
được ăn học thành tài (điều cô hàng
nước không thực hiện nổi) nhưng
người chủ thuyền có công lao tích đức
nọ lại không được hưởng trọn
vốn đầu tư v́ sau khi nhận mẹ, Giáp
Hải được phong tặng đến cực
phẩm (chức Đông Các đại học sĩ)
tước vị tột bậc (Đệ quốc
công) lại sống đến tuổi 72,
được coi là đạt danh nghĩa tam đa
(Phúc-Lộc-Thọ).
Trong cuộc sống, không ít
người cho ḷng tin vào hiệu quả tu nhân tích
đức là khờ khạo vô căn cứ nhưng
lại cũng có người từng trải chiêm
nghiệm và xác nhận hiệu quả ấy như ông
Tam nguyên nọ khẳng định theo những
người đi trước ông hàng ngh́n năm.
Đấy là niềm tin rất có giá trị nhân văn
của nho học trong khi nhiều đức tin khác
quen xúi giục tín đồ đ̣i hỏi, nài nỉ,
thậm chí đ̣i hỏi quá đáng mang dấu hiệu
trấn lột. Điều đáng đánh giá cao là ư
thức tu nhân tích đức buộc những phần
tử biết tự lượng ḿnh kém đức, không
đủ vốn ấy để “đầu tư”
tất không tính chuyện lăm le. Có lẽ chẳng
một tên lâu la đầu mục cướp của
giết người nào lại tính chuyện
đầu tư cho con cháu ḿnh thi đỗ ông nghè ông
cống, nhờ vậy mà hàng ngũ quan lại thêm
phần trong sạch, lương thiện hơn.
PHẦN
THỨ BẢY
SỰ HẰNG TẠI CỦA Ư
THỨC NHO HỌC
Tất cả những ǵ Nho gia
đề cập qua chữ H̉A và chữ NHÂN đă
tồn tại trong xă hội loài người ngót 25
thế kỷ nay và trải bao thử thách. Dù ư thức
Nho gia đă nhẫn tâm bỏ rơi nữ giới
nhưng những ǵ họ dành riêng cho nam giới
cũng có thể áp dụng cho nữ giới khi
cần. Trong ngôn ngữ, người ta vẫn dùng
những từ nữ trượng phu, nữ hào
kiệt, nữ anh hùng ngụ ư phân biệt giới tính
chứ không phân biệt phẩm chất. Chế
độ dân chủ ngày nay chủ trương nam
nữ b́nh đẳng, b́nh quyền, nam giới nếu
vi phạm các khuyết điểm đă cảnh báo
tất bị chế tài đích đáng ngay v́ nữ
giới có mặt khắp mọi cương vị mà
chế độ phong kiến ngày xưa chỉ ưu
biệt cho nam giới.
Người ta không thể phủ
nhận sự HẰNG TẠI của chữ H̉A,
chữ NHÂN. Gia đ́nh, xă hội, quốc gia
đều chịu sự chi phối chặt chẽ
của nó, nhà ngoại giao đă xua nhà sử học
để có thể quên đi mọi xích mích trong quá
khứ, giúp nhau hướng tới phát triển
tương lai. Người ta kêu gọi nhau kiềm
chế để bảo vệ chữ H̉A, quên đi
những hiềm khích trong quá khứ, hô hào đóng góp
cứu trợ nhau để thể hiện chữ
NHÂN dù trong lúc thực hiện những điều
tốt đẹp ấy, họ gặp nhiều
cản trở hủy hoại bởi phía bất nhân
hiếu chiến. Những đoàn xe Hồng thập
tự đi cứu tế những nạn nhân
chiến cuộc, thiên tai cũng đă từng gặp
phải không ít thiệt hại nhân mạng oan uổng.
Trong phạm vi gia đ́nh, làng xóm,
dẫu xảy ra bất ḥa tệ hại đến
mấy, xô xát nẩy lửa đến mấy th́
cuối cùng người ta cũng phải bắt
buộc ḿnh quay về chữ H̉A, chữ NHÂN. Đó là
cách giải tỏa trầm cảm t́m lại sự
nhẹ nhơm cho cuộc sống. Lịch sử nhân
loại đă không ít lần thừa nhận qui
luật Hằng tại của Ḥa, của Nhân ấy
ở mọi nơi, mọi thời.
Tuy nhiên, điều quan trọng
ở đây là sự Hằng tại của những
hành vi Bất Ḥa, Bất Nhân đă xảy ra trong quá
khứ của cá nhân. Tất cả đều
được xử lư thích đáng mà Phật giáo
gọi là nghiệp báo và nho giáo gọi là báo ứng.
Sự “báo” ấy âm ỉ, âm
thầm khiến hầu hết những kẻ bị
báo ứng (chỉ sống trong dương gian) nên
đều không hề nhận ra t́nh h́nh ấy do quá
chủ quan, nhất là do không tin vào luật Hằng
tại, cứ tưởng việc làm của ḿnh trót
lọt, trời không biết, đất không hay,
người càng mù tịt. Họ hành xử như con
đà điểu, phát hiện thú dữ là rúc
đầu xuống cát để tin rằng thú dữ
không có. Người Trung Quốc có một nhận
thức chí lư: “muốn không ai biết th́ cách đúng
nhất là không làm”.
Không ít người đang cuốn
vào ṿng xoáy báo ứng nghiệt ngă lại hồn nhiên
tiếp tục làm thêm điều ác nhiều hơn
để chồng chất thêm vào cuộc báo ứng mà
không tự hay biết để dè chừng. Họ
cảm thấy ḿnh vô tội một cách hồn nhiên và
tin tưởng mănh liệt rằng người chung
quanh họ cũng cảm thấy như họ. Ta có
thể quan sát một trường hợp điển
h́nh: thời Lê - Trịnh một nhân vật kiệt
xuất nọ bị dư luận miệt thị là
kẻ “giết 3 cha” để được thăng
tiến. Nhân vật này từ quan về quê sống
trong chuỗi ngày ăn năn. Chẳng bao lâu ông ra
cộng tác với nhà Tây Sơn trong nhiệm vụ
được tin cậy tuyệt đối, nhận
nhiều ưu đăi trọng dụng, nhà Tây Sơn
bước vào vận suy, ông lại từ quan về
Thăng Long lập chùa riêng ở phố Bích Câu có
lẽ để tiếp tục cuộc sám hối và
đạt đến hàng Ḥa thượng nhưng
đến cuối đời lại mất mạng
do bị phạt trượng đời Gia Long.
Đấy là điều đă được cảnh
báo “Thiện ác rốt cuộc đều có báo
ứng/Cao bay xa chạy cũng khó nấp” (Thiện ác
đáo đầu chung hữu báo/Cao phi viễn tẩu
giả nan tàng-– Minh Tâm Bảo Giám)
Phối kiểm các sự kiện
ông ấy gây ra cũng như ông ấy chịu
đựng, ta thấy rơ các tội bị dư
luận lên án ở ông là “giết 3 cha” thế nhưng
ông không hề bị “dương pháp” chế tài,
thậm chí c̣n thăng tiến, v́ đặc tính
của “dương pháp” là “tuy gần nhưng có
thể trốn tránh”, tuy ông đă sớm nghĩ ra cách
sám hối, đi tu để giũ sạch nợ
đời nhưng “âm pháp” vẫn không để
lọt tội, vẫn dun rủi cho ông sa vào cây gậy
của “dương pháp” thời Gia Long. Người
đọc sử lơ đăng hoặc bảo thủ
đến đâu cũng dễ dàng nhận ra t́nh h́nh
“cao phi viễn tẩu giả nan tàng” ấy.
Những điều thiện ác
mỗi cá nhân gây ra đều chịu luật Hằng
tại không khác ǵ sự hằng tại của “kho sao
chổi” mà giới thiên văn học đă khám phá
từ lâu. Những hành vi thiện ác ấy có thể
phát tán, báo ứng nhăn tiền hay trễ năi vài ba
thế hệ. Giáo lư của Nho gia và Phật gia
đều nghiệm đúng. Dân gian tích lũy khá
nhiều kinh nghiệm như thế, người nào
cũng có dịp quan sát trực tiếp hay gián tiếp
một vài trường hợp ḿnh đích thân chứng
kiến trong đời nhưng khó thể nói ra v́
ngại hao ṃn chữ Ḥa, và cũng do người ta
chưa thể bay vào quá khứ với vận tốc
lớn hơn ánh sáng để truy cứu, t́m bằng
chứng cụ thể. Điều đáng nói là
loạt thông tin này thường bị “gây nhiễu”
tối đa, rất khó tiếp cận, rất khó
lọc ra sự thật tiềm ẩn.
Ngày nay, nghệ thuật thứ
bảy đă nhiều lần công nhận luật
Hằng tại. Bộ phim Luật đời của
điện ảnh Việt Nam gần đây
đă thuyết minh khá xuất sắc:
Một anh bộ đội nhẹ
dạ nọ bị dư luận độc ác mê
hoặc đến nỗi lạnh lùng ruồng rẫy
oan uổng người vợ tao khang, rốt cuộc
bị báo ứng suốt ba đời. Cả ba
đời nhận báo ứng, chẳng một ai
nhận ra ḿnh, bị luật Hằng tại lung
lạc, dun rủi họ mà lại tiếp tục gây
thêm tội lỗi nghiêm trọng hơn, chịu báo
ứng nặng nề hơn. Chỉ có khán giả xem
phim nhận ra sự báo ứng triệt để
ấy.
★
★ ★
Tóm lại, luật HẰNG TẠI
vẫn đang sống chung cùng vũ trụ nhờ
sự vô minh của chúng sinh đă nuôi dưỡng nó.
H́nh dung một cách cụ thể, việc đối
phó với dương pháp coi như đối phó
với một kẻ nặng 70kg trong lúc phía bóng
tối sau lưng ḿnh là hồ sơ Hằng tại do
âm pháp nắm giữ bởi một kẻ khổng lồ
nặng 70x95/5=1.330 kg ! Cách h́nh dung này hoàn toàn phù hợp
với việc nghiên cứu của các nhà vũ trụ
học ngày nay chứ không phải do tưởng
tượng ngẫu hứng.
Giáo Sư Ngô Văn Lại 吳文赖老师
Việt Nam, Tháng 12/2012
TẢN MẠN VỚI TỊ MỊ
Chắc có người thắc
mắc:
-
Bất uẩn chân nhân nghĩa là ǵ ?
Xin trả lời vắn tắt:
-
Bất uẩn chân nhân có thể
hiểu gọn là … Phó quân tử thứ thiệt.
Tiêu chuẩn đạt chất
lượng quân tử được Khổng Tử
đề ra hơi cao, đ̣i hỏi quá nhiều
mặt, ngay bản thân Khổng Tử cũng… chưa
chắc đạt đủ.
Chẳng hạn khi làm quan ở
nước Lỗ (giữ một chức vụ
tương đương chức Bộ
trưởng thời dân chủ) trong một lần
cử hành lễ tế Lao, khi biếu thịt cúng,
tể phu quên phần biếu cho Khổng Tử.
Một người luôn hô hào giữ Lễ, cần cù
biên soạn Kinh Lễ lại bị đối xử
vô lễ đến thế th́ quả là bị sốc,
Khổng Tử bất măn bỏ nước ra đi.
Khắp sáu nước ông đến, vua nước
nào cũng đăi ngộ ông như bậc thầy
nhưng lại ngại, không mời Khổng Tử
giữ chức ǵ, Khổng Tử trở về
nước Lỗ, chỉnh đốn các sách giá
trị của đời trước và biên soạn
sách mới, h́nh thành hệ thống giáo lư Nho học,
mở trường dạy học tṛ, tạo nên
một nền Đạo Đức học xuất
sắc, lâu bền nhất, phổ biến rộng răi
nhất (giả sử cứ mỗi năm có thêm ít
nhất là 1.000 người tiêm nhiễm với Nho
học th́ gần hai ngh́n rưỡi năm con số
đạt gần hai tỉ rưỡi người
!). Thế cho nên hậu thế suy tôn ông là “Vạn
thế sư biểu” là hoàn toàn thỏa đáng.
Sự sơ suất của viên
tể phu chia thịt ở lễ tế Lao xa xưa
của nước Lỗ ai dè lại tạo ra cho nhân
loại một vị thánh nhân và một học
thuyết bền vững, khiến nhiều tôn giáo,
nhiều thế lực chính trị đă biến
tấu, tân trang để tận dụng nhan nhản
trong thế giới hiện tại đến thế.
Tuy nhiên, việc giận của
Khổng Tử có vẻ… chưa quân tử lắm
bởi v́ “người quân tử th́ phải ăn không
cầu no, ở không cầu yên, nhanh nhẹn khi làm việc
mà thận trọng khi nói năng…” (quân tử thực
vô cầu băo, cư vô cầu an, mẫn ư sự nhi
thận ư ngôn…) cùng vô số quy định chặt
chẽ khác ở những lĩnh vực khác. Nếu
Khổng Tử tự phê b́nh chắc ông cũng
phải nhận khuyết điểm như thế
chứ không quanh co xuê xoa hay lẳng lặng rời
xứ sở chu du sáu nước.
C̣n Bất uẩn có nghĩa là ǵ ?
Bất uẩn là “không giận
ngầm, không uất ức”, dùng theo câu nói của
Khổng Tử ở sách Luận Ngữ: Nhân bất
tri nhi bất uẩn, bất diệc quân tử hồ
?” (Người ta không “biết” mà không uất giận
ngầm đấy chẳng phải cũng là quân
tử hay sao ?)
Chữ TRI tạm để trong
ngoặc kép để nhấn mạnh ư nghĩa:
Thời xưa, người nổi
tiếng có hiếu, có liêm mà quan địa
phương không “biết” để tiến cử lên
vua, để có dịp trổ tài giúp dân, giúp
nước hoặc đến thời thi cử
người có tài nhưng khảo quan nhận không
đúng tài, không “biết” lấy đỗ, đấy
là những người bị… “Nhân bất tri”. Nếu
người đó căm tức, sinh ra thất chí,
cuồng chữ, cay cú với người này
người khác như Tú Xương th́ “chả” quân
tử tí nào ! Phải là Bất Uẩn thĩ “cũng” đáng
coi là quân tử.
Chữ “cũng” trong Việt ngữ
hàm nghĩa … “gần bằng” chứ không phải là
“bằng nhau” thực thụ nên tạm gọi là … Phó
quân tử vậy.
2015
Bất
Uẩn chân nhân
|