LUẬT HẰNG TẠI TRONG VŨ TRỤ

 

 

 

请阅读吳文赖老师佳作 * Xin mời đọc một số tác phẩm cuả Giáo Sư Ngô Văn Lại.

 

 

 

MẤY D̉NG TÂM SỰ

 

Tôi cảm thấy ḿnh mắc nợ với ĐỜI nếu không cố gắng viết nên tập sách nhỏ này.

 

Nền văn minh nhân loại đă công nhận luật Vạn vật hấp dẫn, luật Bảo toàn năng lượng cùng nhiều luật khác nhưng Luật Hằng tại có lẽ chỉ mới được đề cập lần đầu. Tuy nhiên, đây chỉ là chuyện “b́nh mới rượu cũ” v́ nó chỉ là “con đẻ chưa khai sinh” của hai luật vừa kể trên.

 

Nhà Toán học người Pháp Le Verrier (1811-1877) đă tính toán ra vị trí Hải vương tinh trong vũ trụ nhờ luật Vạn vật hấp dẫn của Newton (1642 - 1727) th́ luật Hằng tại của vũ trụ biết đâu sẽ có thể giúp nhiều nhà nghiên cứu khác suy gẫm khám phá được nhiều điều về chân lư, về đạo đức để vén bức màn vô minh quá đỗi bao la che phủ trí tuệ ḿnh, giúp con người sống tốt hơn cho Đời và cho Ḿnh th́ đáng hi vọng biết bao nhiêu.

 

 

Đà Nẵng, 2015

Người biên soạn

 

 

LỜI NÓI ĐẦU

 

Tập sách nhỏ nhoi nầy đến tay độc giả trong điều kiện hoàn toàn mạo hiểm khi kẻ biên soạn nó đă chấp nhận cảnh ngộ khiếm thị và Viện Mắt ở Đà Nẵng đă tuyên bố bỏ cuộc hồi tháng 6.2012. Soạn giả đành chỉ biết phóng bút theo quán tính và vận dụng tri thức tích lũy trong quá khứ mà không thể tham khảo tư liệu hoặc đọc lại những ǵ ḿnh đă viết, nghĩa là khó ḷng “nối mạch” cho ổn thỏa giữa hai đợt cầm bút. Nói cụ thể như vậy để xin lỗi độc giả trước khi đọc pḥng khi bắt gặp những phần có vẻ trùng lặp hay đứt quăng, lạc ư. (May thay ngót nửa năm, thị lực được phục hồi).

 

Nghiên cứu vũ trụ, Isaac Newton (1642 - 1727) đă khám phá ra Luật hấp dẫn, thuyết phục tối đa nhân loại, chưa ai dám phản biện. Luật Hằng tại được công bố lúc này có lẽ đă quá trễ, lại va phải bức thành đồng của tín ngưỡng tôn giáo khi người ta coi “con người chỉ là cát bụi, sẽ trở về với cát bụi”, coi vạn vật chỉ là “không sinh sắc, sắc hóa không” chả có ǵ là hằng tại cả.

 

Người biên soạn tập sách nhỏ nhoi này đă đánh mất hơn nửa thế kỷ của đời ḿnh để chiêm nghiệm các chân lư trên nhưng từ khi đọc thấy câu “chúng sinh vô minh, gây bao nghiệp ác để phải chịu đựng quả báo triền miên …”. Tôi nhớ mang máng đấy là lời Phật dạy nhưng giờ đây không thể kiểm tra độ chính xác của câu chữ cùng xuất xứ cụ thể của chúng. Tôi chỉ nắm được chân lư then chốt là “chúng sinh vô minh”. Trong một thời gian khá dài, tôi cảm thấy khó thể tiêu hóa nổi cụm từ có vẻ miệt thị ấy, măi đến khi vượt tuổi 70 của đời ḿnh, tôi mới thực sự tâm phục khẩu phục lời nhận định đầy ư phê phán của vị giáo chủ uyên bác lừng lẫy ấy.

 

Nh́n vào lịch sử, dù là thứ lịch sử biên niên sơ sài, ta cũng thấy có điều đáng suy nghĩ: Lư Công Uẩn (Thái Tổ) đi tu Phật giáo để lập ra nhà Lư th́ cuối cùng Lư Đạo Sảm (Huệ Tông) lại đi tu Đạo giáo để kết thúc nhà Lư. Kẻ lên ngôi nhờ vào thủ đoạn tàn độc, th́ kẻ nối ngôi lại vướng vào thủ đoạn ấy, khó có thể bảo đấy là hai trường hợp ngẫu nhiên và biệt lập, chả liên quan ǵ nhau, khi thử vén bức màn “vô minh” đang che phủ trí tuệ ḿnh.

 

Tập sách nhỏ này tuy khoác cái tên hơi mới nhưng nó chứa đựng hai luồng tư tưởng lâu đời Phật giáo và Nho giáo, tức là theo cách “tập đại thành” của Khổng Tử đă dùng.

 

Với Khổng Tử (551 - 479 tr CN) th́ việc “tập” của ông nhằm vào các vua Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vũ và trong lúc chăm chỉ “tập” họ ông không quên luồn vào đấy tư tưởng của bản thân. Ngoài Khổng Tử c̣n có bao nhiêu “Tử” khác như Mạnh Tử, Tăng Tử, Tử Cống, Tử Dư, Tử Hăn, Tử Tư, v.v…cần cù bổ sung vốn liếng trí tuệ của họ qua thời gian. Tính đến thời Tống, khi các nhà phục hưng Nho học (phái Tống nho) như Tŕnh Di, Tŕnh Hạo, Chu Hi, Trương Tải (học tṛ vị này c̣n đông đảo hơn con số 3.000 của Khổng Tử!). Như vậy nền Nho học được vun đắp lâu dài ngót 1.500 năm, tư tưởng ấy trộn lẫn không ít phần đóng góp của trí tuệ dân gian. Phật giáo và Nho giáo đă ảnh hưởng qua lại trong quá tŕnh truyền thụ, mặt khác giới tăng sĩ với nho sĩ mọi thời, mọi nơi vốn thường đi lại thân thiết, xướng họa tâm đắc không ít. Ngoài các học giả trên, sách Minh Tâm Bảo Giám được dùng để viện dẫn cho tư tưởng nho giáo ở đây.

 

Những câu trích thẳng từ sách trên, thực chất là của cá nhân Phạm Lập Bản, học giả đời Minh và có lẽ tư tưởng chứa đựng trong những câu đó được đúc kết từ trí tuệ những người đi trước ḿnh nên Phạm Lập Bản không dám coi là hoàn toàn của ḿnh.

 

Trước khi Nho học phổ biến, nền học thuật của Trung Quốc đă trải qua thời kỳ trăm hoa đua nở, đó là thời kỳ “bách gia chư tử” (hàng trăm nhà lập thuyết) ồ ạt xuất hiện vào thời Xuân Thu. Chẳng hạn khi bàn về Tính người, Mạnh Tử chủ trương thuyết Tính Thiện cho rằng “lúc mới sinh, con người vốn thiện như nhau nhưng rồi tập quán làm cho họ xa nhau, nếu không dạy dỗ, tính ấy sẽ dời đổi” (Nhân chi sơ, tính bản thiện. Tính tương cận, tập tương viễn, cẩu bất giáo, tính năi thiên -– Tam tự kinh).

 

Như vậy chính môi trường sinh nhai khiến người ta xa rời tính gốc, chẳng hạn, kẻ làm lính có thể trở thành tàn nhẫn, hung ác, thô bạo, kẻ tu hành có thể trở nên hiền hậu, điềm đạm, ḥa nhă.

 

Cùng thời Mạnh Tử, có Tuân Tử lập thuyết ngược lại. Ông cho bản tính con người vốn “Ác”, nếu không dạy dỗ th́ khó thể trừ bỏ cái Ác để trở thành người Thiện được. Quan sát những đứa trẻ hiếu động, lêu lổng ta dễ dàng nhận ra thuyết “nhân chi sơ, tính bản Ác” nghe có vẻ thuyết phục hơn.

 

Chẳng hạn quan sát một đứa trẻ c̣n chưa biết đi, biết nói, vớ được cái ǵ trổ tài gây Ác, giật đuôi chó, bẻ chân chim, vặt cánh chuồn chuồn, v.v… Lớn hơn, biết chạy nhảy th́ ném đá vào cửa sổ tàu đang chạy, sẵn sàng tham gia phá xóm, phá làng, băng này băng khác, v.v…

 

Một “Tử” khác là Cáo Tử phản biện cả hai “Tử” trên, chủ trương rằng ‘Tính người như ḍng nước chảy, khơi sang Đông, chảy sang Đông, khơi sang Tây, chảy sang Tây…” (Tính do thoan thủy dă, khoái chư Đông tắc chi ư Đông, khoái chư Tây tắc chi ư Tây…)

 

Trước quang cảnh “loạn Tử” kéo dài ngót năm trăm năm như thế, đến đời Hán, có Đổng Trọng Thư dâng lên vua Hán phương án “Thiên nhân tam sách” đề xuất chủ trương “độc tôn nho học, cự tuyệt bách gia” mở ra thời kỳ Nho giáo phát triển, chi phối cuộc sống lâu dài mang tính Hằng tại hơn mọi nền tư tưởng khác trong lịch sử loài người.

 

 

Phải đến tuổi tám mươi của đời ḿnh, sau nhiều chục năm đọc sách, quan sát, kiểm nghiệm và nhất là trầm tư trong nhiều đêm không ngủ, tôi mạo muội bàn về những điều nêu trên trong tập sách này với ḷng hi vọng thiết tha sẽ đến tay những tâm hồn đồng thanh khí.

 

 

Đà Nẵng, 2015

Soạn giả.

 

 

PHẦN THỨ NHẤT

 

LUẬT HẰNG TẠI LÀ G̀ ?

 

Hằng tại có nghĩa là tồn tại măi măi. Các Hằng đẳng thức đáng nhớ trong Toán học như {(a + b)2 = a2 + b2 + 2ab; (a - b)2 = a2 + b2 - 2ab)} hay sự xuất hiện theo chu kỳ cố định của sao chổi Halley trong Thiên văn học là những dạng hằng tại cụ thể nhất. Đấy là sự hằng tại cứng. Hằng tại cứng chiếm tỉ số không đáng kể so với hằng tại mềm, đối tượng chủ yếu của tập sách nhỏ nầy. Hằng tại mềm uyển chuyển, biến hóa, mang tính cách chất lỏng, luôn thay đổi h́nh dạng thiên biến vạn hóa nên cũng có thể coi là Hằng tại lỏng, (phân biệt với Hằng tại cứng tức Hằng tại rắn).  Kẻ thiếu tŕnh độ suy nghiệm không tài nào nhận ra Hằng tại lỏng, ngay cả những người chịu tác động trực tiếp. Chẳng hạn một kẻ làm điều ác nhưng bản lĩnh có thừa, đầy đủ mưu ma chước quỷ ém nhẹm tài t́nh, bít lối cả mọi hướng điều tra, truy tố, bịt miệng cả nhân chứng trung thực nhất, quan ṭa nghiêm khắc nhất. Kẻ ấy đầy đủ t́nh tiết ngoại phạm khiến dư luận cũng bó tay, coi y là người vô tội một cách tâm phục khẩu phục. Tội ác y gây ra rốt cuộc chỉ mỗi một ḿnh y biết, c̣n với thiên hạ, y là kẻ vô tội trong tư thế ngẩng cao đầu. Như vậy, mọi biện pháp của người đời không thể nào đụng tới bản thân y, nhưng “lưới trời lồng lộng”, việc y làm chịu ảnh hưởng của luật Hằng tại và những ǵ xảy ra cho cuộc đời c̣n lại của y, chứa chắc chắn số h́nh phạt nhất định nào đó, bản thân y có thể cảm nhận hoặc chối bỏ, nhưng sự báo ứng vẫn thầm lặng diễn ra theo sự chi phối siêu h́nh của luật Hằng tại, thậm chí uy lực của luật nọ lắm lúc c̣n gây liên lụy cho người thân thuộc liên quan. Theo giáo điều nhà Phật th́ sự báo ứng thiện ác của Nghiệp đưa lại (quả báo) có thể xảy ra trong nhiều kiếp, c̣n Nho gia lại quan niệm ṣng phẳng hơn coi việc báo ứng là chuyện nhăn tiền, những hành vi thiện ác đều được trả giá ở một thời điểm nào đó do Trời Đất cân nhắc. Javaharlal Nehru (1889-1964) có nhận định mang tính tổng hợp hai nguồn giáo điều ấy bằng câu nói bất hủ: “Ngoài ta ra, không ai hại ta được”, có nghĩa là ḿnh làm ḿnh chịu, dù kẻ khác có làm khiến ḿnh chịu lây th́ xét cho cùng cũng do chính ḿnh thiếu cẩn trọng, kém đắn đo. Rơi xuống vực sâu th́ chẳng nên quy tội cho vực sâu mà phải thành thật nhận ḿnh đi đứng bất cẩn. Khi bị kẻ khác lừa gạt gây thiệt hại lớn th́ phải tỉnh táo nhận ra những mồi nhử, những thủ đoạn ranh ma của kẻ lừa gạt trước khi tin tưởng vô điều kiện về những món lợi ảo kết sù được hứa sắp có. Trong kinh nghiệm sống, lắm lúc kẻ ác gặp may, người thiện gặp rủi khiến người ta cho là Trời không có mắt, nhưng thực ra đối với một con người chuyện thiện ác nằm chung trong chiều dài thời gian, chỉ tới cuối đời hoặc kiếp sau (tùy theo quan niệm tín ngưỡng nho gia hay phật giáo) mới có sự báo ứng thích đáng. Nho gia gọi đó là lúc “thiện ác đáo đầu” tương đương như câu nói vui của dân gian “chuột chạy cùng sào”. Những dịp may hay rủi nằm trong chuỗi sự kiện một đời sẽ được luật Hằng tại âm thầm ghi nhận, âm ỉ tiến hành trừng phạt, dù kẻ sống suốt đời cũng chưa dễ nhận ra, giống như phần khuất của mặt trăng, hàng ngh́n đời thiên hạ chỉ biết đến Hằng Nga, cung quảng, thằng Cuội, cây đa … không mảy may biết đến phần khuất ấy măi đến khi nhân loại sáng chế ra máy móc khám phá vũ trụ dùng trong các vệ tinh. Có lẽ nhiều ngh́n đời sắp tới nhân loại cũng vẫn vô tư vô cảm trước sự vận động âm thầm ấy của luật Hằng tại. Hiểu được luật Hằng tại, người ta sẽ dè chừng trong mọi hành vi thiếu suy nghĩ của ḿnh, không giữ cho ḿnh những bí mật riêng tư, hí hửng đắc ư rằng thiên hạ mù tịt chẳng ai biết nổi, điều bí mật của ḿnh tất không tài nào bị luật Hằng tại xử lư cho nổi.

 

Một số giáo điều của Nho học cũng măi măi gắn bó với đạo lư ở đời, đấy cũng là một kiểu hằng tại, dù không ít người chê bai chúng lạc hậu lỗi thời, phi khoa học, phản văn minh. Tuy nhiên, sẽ có những lúc ngay đến kẻ chê bai mỉa mainhất cũng mặc nhiên hành động theo kẻ bị chê bai, chẳng hạn người ta có thể phê phán hủ tục bảo vệ tiết hạnh là ḱm hăm sự tự do của nữ giới, thế nhưng nếu con gái những kẻ chỉ trích ấy sống buông thả, kết bạn bừa băi, lêu lổng suốt đêm, tham gia những sinh hoạt nhạy cảm không được phép người lớn trong gia đ́nh, đương nhiên họ sẽ dùng những giáo điều nho giáo để răn đe mà bản thân họ quên bẵng rằng chính ḿnh đă từng mỉa mai chỉ trích mạnh mẽ những giáo điều ấy.

 

Tính ra tư tưởng Khổng Tử, tức tư tưởng Nho giáo đă xuất hiện ngót 2.500 năm nhưng ảnh hưởng của nó không hề hao ṃn dù hàng tỉ dân Trung Quốc đă có thời rầm rộ, ráo riết “phê Lâm, phê Khổng” cốt để thủ tiêu triệt để tư tưởng Khổng Tử. Thế nhưng, sau bao nhiêu hỗn loạn, tiêu diệt nhau một cách mù quáng, đặc biệt nhắm vào giới trí thức tự do (điển h́nh như trường hợp vợ chồng giáo sư Ngô Hàm) nhưng rồi măi đến gần đây vũ trụ đă dần xuất hiện t́nh h́nh “nước chảy đá bày” những ư đồ bạo liệt nhất thời nọ đă lụi tàn cho những giá trị Hằng tại nhô lên, lác đác đâu đó một vài nền điện ảnh Châu Á đă xây dựng nhiều bộ phim dựa trên nền tư tưởng Hằng tại ấy và một số phim ảnh Âu Mĩ có vẻ như bắt đầu thấm nhuần ảnh hưởng.

 

 

PHẦN THỨ HAI

 

NHO GIÁO, NHO HỌC,

NHO GIA, NHO SĨ

 

Tất cả các từ trên đều chỉ định chung một gốc, đấy là Nho học.

 

Trước đây, trẻ con đi học chữ Hán thường gọi là học chữ Nho, tất cả nhân viên văn pḥng ở mọi công đường phủ huyện, bút lông cài mép tai thoăn thoắt qua lại, hí hoáy biên chép, được thiên hạ gọi là thầy nho. Như vậy, Nho là ǵ ?

 

Theo phép lục thư của văn tự biểu ư Trung Quốc, chữ Nho () được cấu tạo bằng hai phần: Phần bên trái là bộ Nhân (), có nghĩa là người (nhân chủng, nhân gian, nhân thế, nhân lực, v.v…). Phần bên phải là chữ Nhu () có nghĩa là cần thiết (nhu cầu, nhu yếu, quân nhu…). Phần này vừa mang tính hài thanh (nhu -> nho) vừa mang tính hội ư. Như vậy, Nho là đạo lư cần thiết cho con người, chừng nào con người c̣n tồn tại th́ c̣n cần đến thứ đạo lư Hằng tại ấy, dù tán thành hay phản bác. Lịch sử nhiều nước châu Á đều biết ơn sâu sắc những phần tử nho gia tích cực mà người đời gọi chung là giới sĩ phu. Giới ấy đă tạo nên vô số điểm son rạng rỡ trong lời lẽ lẫn hành động.

 

Trong việc nói năng bàn luận, người ta thường sử dụng lẫn lộn khái niệm nho học với nho giáo, có lẽ trong ư nghĩ người ta coi những người đeo đuổi nho học thường rất tuân thủ những giáo điều của học phái ấy, biến sự tuân thủ ấy thành h́nh thức sùng kính tuyệt đối, tự coi như tín đồ của một giáo chủ chí tôn. Kỳ thực dù các thành viên ấy có sùng kính đến bậc nào th́ bản thân các nho sĩ cũng chỉ là những thành viên tán thành chân lư chứ không phải tín đồ có tổ chức, có phẩm chất, có đồng phục, có đeo phù hiệu, có sinh hoạt thường kỳ như các tín đồ tôn giáo chính thức. Thành thử khi nói nho giáo, phật giáo, lăo giáo là ba tôn giáo quốc gia (như trong các cuộc thi tam giáo đời Lư) là cách diễn đạt chưa chuẩn xác, bởi nho giáo ở đây chỉ có nghĩa là những ǵ được giáo dục qua nho học chứ không phải là một tôn giáo có tập tục tu tŕ, ăn chay, kiêng thịt, v.v…

 

Dưới đây là những tri thức nhập môn cần biết về Nho học.

 

 

PHẦN THỨ BA

 

CHÚT TRI THỨC TỐI THIỂU VỀ

VŨ TRỤ QUAN NHO HỌC

 

I./ THÁI CỰC:

 

Thái cực có nghĩa là lớn cực độ. Nho gia dùng cách gọi đó cho vũ trụ. Nó lớn đến nỗi không ǵ ở ngoài nó được (kỳ đại vô ngoại). Đồng thời nó cũng hiện diện tận cái nhỏ nhất đến nỗi không c̣n chỗ cho cái khác tồn tại trong cái nhỏ đó (kỳ tiểu vô nội) thành thử bên trong các hạt vật lư (proton, electron, neutron…) cũng là vũ trụ.

 

Thân xác con người cũng là “tiểu vũ trụ”. Cái “tiểu vũ trụ” này cũng ḥa hợp với “đại vũ trụ”, thành thử ḷng người cũng ḥa hợp với ngoại cảnh.

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ ? (Kiều)

 

Khoa đông y cũng đặt nền tảng ấy vào việc miêu tả bệnh chứng (hàn, thấp, nhiệt, v.v…) và sử dụng dược liệu theo xu hướng ấy. Chẳng hạn, người ta dùng rễ, củ trị bệnh phần dưới cơ thể, hạt, lá, vỏ cây trị phần trên cơ thể. Người ta cũng lấy nội tạng các loài để bồi bổ cho sức khỏe phủ tạng con người.

 

Sách Từ nguyên định nghĩa:

 

Trên, dưới, bốn phương là Vũ

Xưa qua, nay đến là Trụ

 

Như vậy, vũ trụ là gồm cả không gian vô hạn và thời gian vô cùng.

 

Thực ra sơ đồ trên chỉ giả thiết vũ trụ hai chiều, trong khi phải miêu tả nó theo không gian ba chiều, nghĩa là trông nó giống chiếc b́nh cầu trong pḥng thí nghiệm, tuy đến thời điểm này nhân loại đă quan sát hàng tỉ năm ánh sáng. Có thể nói vũ trụ chiếm vô số chiều trong không gian và thời gian. Tóm lại, vũ trụ là vô hạn, vô biên trong không gian và vô thủy, vô chung trong thời gian, con người không tài nào h́nh dung cụ thể nổi. Chẳng hạn khoa thiên văn học đă quan sát vũ trụ có đến hàng triệu thiên hà, và mỗi thiên hà ấy lại có hàng triệu nhật cầu (mặt trời + các tinh cầu), mỗi nhật cầu quy tụ hàng triệu tinh cầu mà bản thân  mặt  trời  đă    đường  kính 1.400.000 km c̣n tinh cầu lớn nhất trong vũ trụ đă được quan sát đến lúc này lại có đường kính dài gấp 2.000 lần mặt trời, đến nỗi người ta đă tính toán rằng một máy bay dân dụng muốn bay giáp ṿng theo đường xích đạo của tinh cầu siêu đại ấy phải mất …1.200 năm ! C̣n sự vô tận của thời gian cũng hoành tráng không kém, gần đây giới khảo cổ học đă t́m ra hóa thạch của một chú rùa tồn tại 235 triệu năm tuổi ! Thử h́nh dung một con người cùng tuổi với chú rùa nọ th́ đến nay người ấy đă là cụ tổ…siêu cao đến 7.833.333 đời của thế hệ hôm nay (tạm tính theo phả hệ biên niên lâu đời nhất của nhà Khổng Tử).

 

II./ LƯỠNG NGHI:

 

Theo nho gia, cái thái cực siêu đại trên đây chỉ hiện diện trong ư thức, chưa ai phối kiểm với thực tế, nhưng người ta đă phân biệt hai yếu tố cơ bản của Thái cực (tức vũ trụ) là Thái Âm và Thái Dương, gọi chung là Lưỡng nghi (H́nh 2).

 

 

 

H2: Lưỡng nghi

 

 

Lưỡng nghi luôn luôn giữ thế cân bằng, đắp đổi nhau, nhường nhịn nhau trong thời gian và không gian. Đang lúc Dương thịnh th́ Âm suy. Đang lúc Âm thịnh th́ Dương suy. Kinh nghiệm dân gian cũng nêu rơ điều đó “ngày tháng 10 chưa cười đă tối -– Đêm tháng 5 chưa nằm đă sáng”.

 

Với không gian cũng vậy, chỉ riêng đất nước Chile, phía cực nam có lượng mưa cao nhất thế giới (gần 10m/năm), c̣n ở phía cực bắc lại đứng đầu thế giới về khô hạn (b́nh quân 1mm/năm).

 

Tôi cho rằng người ta có thể làm một thí nghiệm trực quan về Lưỡng nghi bằng cách đổ vào b́nh cầu thủy tinh trong suốt hai chất lỏng, nửa b́nh cầu là dầu hỏa tượng trưng cho Dương, nửa b́nh c̣n lại là phần lỏng ḥa màu nhạt (để dễ quan sát) tượng trưng cho Âm. Lắc mạnh b́nh cầu nọ, ta có một khái niệm về sự vận hành của Lưỡng nghi trong vũ trụ. Nh́n kỹ chất lỏng trong b́nh cầu, người ta thấy chúng như hai con bạch tuộc không mắt vô cùng dị dạng khác màu có vô số xúc tu đủ mọi h́nh thù, đủ mọi kích cỡ, tùy tiện đàn hồi, ôm khít nhau không chừa khe hở. Sự ôm khít và đàn hồi ấy biểu kiến sự thịnh suy của âm dương. Tôi cho rằng ở đời chẳng mấy ai có quan niệm đúng đắn, đầy đủ về độ cân bằng của Lưỡng nghi. Thường người ta chỉ nhận những ǵ thuộc về Dương mà phủ nhận vai tṛ của Âm, bởi lẽ “âm thầm” và “âm ỉ” th́ chỉ bị phát hiện sau khi bị tác hại cụ thể, hay được nhận ra từ những trí tuệ kiệt xuất. Theo nhân định sơ khởi của giới bác học th́ tính đến thiên niên kỷ thứ ba này nhân loại đă khám phá ra rằng Lưỡng nghi không phải là hai yếu tố tương đương nhau mà chênh nhau theo tỉ lệ Âm 95, Dương 5, tức là nhân loại chỉ đủ sức xử lư tối đa 5% chuyện đời và chấp nhận 95% vô minh, chỉ biết cam chịu thụ động hoàn toàn ngẫu nhiên mà thôi.

 

Đối với nho gia, tác động của Âm “chậm mà chắc” (Âm pháp tŕ nhi bất lậu - Minh Tâm Bảo Giám -Tĩnh tâm). Chỉ khi nào cái Tâm thực sự yên tĩnh người ta mới nhận ra mănh lực của yếu tố Âm. Trong cuộc sống, con người choáng ngợp với sức phô triển rầm rộ trước mắt hàng ngày của cái Dương, con người chả c̣n thời giờ đâu để quay lại ngó chừng cái Âm lặng lẽ mơ hồ ở sau lưng trong bóng đêm tĩnh mịch. Nhiều kẻ đang quay cuồng trong vực xoáy của “Âm pháp tŕ nhi bất lậu” ấy nhưng vẫn không hề hay biết, không chút ăn năn, trái lại c̣n tự tiếp tục mù quáng làm cho ḿnh phải trả giá nhiều thêm, Hitler của chủ nghĩa phát xít Đức hăm hở ráo riết tiêu diệt chủng tộc Do Thái trên lănh thổ ḿnh chiếm đóng, là một ví dụ tiêu biểu cho t́nh trạng ấy trong lịch sử cận đại.

 

II./ TỨ TƯỢNG

 

Thái cực phân ra Lưỡng nghi, rồi đến lượt Lưỡng nghi phân ra Tứ tượng gồm Thái Âm, Thiếu Âm, Thái Dương và Thiếu Dương (H.3).

         

 

 

H3: Tứ tượng

a: Thiếu Dương - B: Thái Âm

B: Thiếu Âm –- B’: Thái Dương

 

Trong biểu đồ, Thái Âm biểu thị bằng h́nh con cá đen không vây, đuôi nhọn, có mắt trắng (Thiếu Dương), c̣n Thái Dương biểu thị bằng h́nh tương tự nhưng mắt đen (biểu thị cho Thiếu Âm).

 

Hàm nghĩa của biểu đồ về Tứ tượng như sau:

 

Âm và Dương của Lưỡng nghi diễn biến hoàn toàn tự nhiên, nhịp độ nhanh chậm tùy tiện. Chỗ nhọn của h́nh cá đen là Thiếu Âm, khi diễn tiến đến chỗ ph́nh to nhất chỗ “đầu cá” th́ bắt đầu h́nh thành Thái Âm (Âm lớn). Đúng lúc đó, trong Thái Âm sinh ra “mắt trắng” của cá, tượng trưng cho Thiếu Dương (Dương bé). Thiếu Dương biểu thị bằng “mắt trắng” của h́nh cá đen, lại vừa biểu thị bằng “đuôi nhọn” của cá trắng. Khi Thiếu Dương ấy diễn biến tột độ th́ bắt đầu trở thành Thái Dương và lúc nó ph́nh to nhất th́ sinh ra Thiếu Âm (Âm bé) biểu thị bằng “mắt đen” của cá trắng, đồng thời cùng biểu thị “đuôi nhọn” của cá đen.

 

Sự vận hành của vũ trụ cứ luân lưu đắp đổi như thế măi. Trong sơ đồ thuyết minh kể trên, giả thuyết vũ trụ hai chiều và âm dương cân nhau tuyệt đối, nhưng trong vũ trụ ba chiều th́ âm dương phát triển tùy tiện như đă nói trong phần Lưỡng nghi. Điều rất đáng ngạc nhiên là theo công bố gần đây của giới bác học vật lư vũ trụ th́ Âm và Dương có tỉ số cực chênh lệch. Giới ấy cho rằng 95% vật chất trong vũ trụ ch́m trong bóng tối, chỉ có 5% vật chất có mặt trong ánh sáng. Thế giới vật chất đă như vậy th́ có lẽ thế giới phi vật chất cũng không kém cạnh, có nghĩa là âm lấn át đến 95%, c̣n Dương chỉ giữ chỗ có 5% ít ỏi trong vũ trụ (không rơ các vị ấy tính toán chắc lép ra sao mà đưa ra đáp số quá ư kinh khủng ! Thử h́nh dung một kẻ nào đó đắc tội với đời, Dương pháp kết án 5 năm, rồi Âm pháp “chồng” án thêm lên…95 năm th́ sức đâu mà chịu ? Liệu có một chúng sinh nào thoát khỏi t́nh trạng “vô minh” để biết khiếp vía về mức đền tội kinh khủng đến thế không?).

 

III./BÁT QUÁI

          Tứ tượng sinh ra Bát quái. (H4)

 

 

 

H4: Bát quái

 

Bát quái là tám quẻ. Tên gọi mỗi quẻ là: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

Tám quẻ (Bát quái) kể trên lại ghép theo từng cặp một chồng lên nhau để tạo ra 64 quẻ mới (8x8). Người ta dùng chúng để giải mă mọi việc trên đời. Cách làm đó được gọi là bói quẻ Dịch.

 

Các quẻ của Bát quái được phân biệt bằng những vạch liền và vạch đứt. Để phân biệt các quẻ, người ta minh họa bằng mấy câu thơ:

 

Càn tam liên,

Khôn lục đoạn

Chấn ngưỡng bồn

Cấn phúc oản

Ly trung hư

Khảm trung măn

Đoài thượng khuyết

Tốn hạ đoạn

(Quẻ Càn có ba vạch liền

Khôn có sáu đoạn đứt

Chấn giống chậu để ngữa (vạch liền dưới hai vạch đứt)

Cấn như chén úp (vạch liền nằm trên hai vạch đứt)

Ly rỗng ở giữa (vạch đứt nằm ở giữa hai vạch liền)

Khảm đầy ở giữa (vạch liền nằm ở giữa hai vạch đứt).

Quẻ Đoài khuyết ở trên (vạch đứt nằm trên hai vạch liền)

Quẻ Tốn đứt phía dưới (vạch đứt nằm dưới hai vạch liền)

 

Các quẻ ấy tượng trưng cho mọi hiện tượng trong vũ tru hoặc một vị trí, một đối tượng, v.v... Kinh Dịch chỉ rất rơ vai tṛ các quẻ, ví dụ như quẻ Càn và Khôn ứng vào Trời và Đất, chúng cũng ứng vào Cha và Mẹ. Quẻ Chấn ứng vào con trai trưởng (người ta đặt tên thường đệm chữ Bá hay chữ Mạnh), quẻ Khảm ứng vào con trai giữa (đặt tên thường kèm theo chữ Trọng hay Thúc), quẻ Cấn ứng vào con trai út (khi đặt tên thường kèm theo chữ Quư). Các quẻ khác hoặc ứng vào núi, sông hoặc anh trai, chị gái, v.v…. Người ta lại chồng lên nhau để lập ra 64 quẻ phức. Bói Dịch là dựa vào bấy nhiêu quẻ để xác định may rủi, thành bại. Theo Đào Trinh Nhất th́ Phan Đ́nh Phùng đă nhờ biệt tài bói Dịch mà biết trước mọi diễn biến của các cuộc hành quân của lính tập, luôn luôn thoát hiểm kịp thời trong đường tơ kẽ tóc, bảo toàn lực lượng nghĩa quân ở mức có thể. Người thứ hai cũng sành phép bói Dịch, dùng nó để độ thân và nuôi chồng con là người vợ của Cao Bá Quát mà ông gọi lóng là Ngọc Rồng (Long Châu) v́ bà là vợ của Rồng đầu đàn - Nguyên Long - biệt hiệu của Cao Bá Quát.   

Chỉ bắt nguồn từ Bát quái mà người ta tiên đoán tất tật mọi sự đời, chứng tỏ vũ trụ quan của nho học thật siêu việt, phong phú, tinh vi. Ở những ngôi nhà cổ (không loại trừ những ṭa biệt thự ngày nay!), người ta thường treo một tấm gỗ tám cạnh đều chạm trổ bát quái cùng Thái cực, Lưỡng nghi, Tứ tượng (có kèm 4 chữ: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh) để tỏ ḷng tôn trọng, sùng tín vũ trụ quan chính thống thiêng liêng của nho gia. Tuy nhiên, với đa số người do tŕnh độ hạn chế mặc nhiên coi đó là một loại bùa trừ ếm ma quỉ.

 

Xem ra việc thể hiện vũ trụ quan qua Bát quái đồ trên đây chỉ chú trọng phần không gian (Vũ) mà lăng quên hẳn phần thời gian (Trụ). H́nh như giới Vật lư học giải quyết phần này có vẻ cụ thể, thú vị hơn. Giới ấy cho rằng nếu người ta có thể “bay” ngược thời gian (theo chiều Đông - Tây tức ngược chiều quay của địa cầu) với vận tốc cao hơn ánh sáng (300.000 km/giây) th́ sẽbắt gặp lại những sự kiện xảy ra trong quá khứ. Chẳng hạn sự phá hoại khủng khiếp ṭa tháp đôi của Mỹ xảy ra cách nay 13 năm, nếu ta “bay” nhanh gấp đôi ánh sáng (tức 600.000km/giây, tức 2.160 triệu km/giờ) tất chỉ tốn 6,5 năm bay ngược như thế (tức vào năm 2012 + 6, 5 = 2021,5) ta sẽ thấy lại sự kiện rùng rợn ấy, nhằm vào lúc nhân loại đi lại tấp nập rộn ràng, chuyện tṛ linh tinh thoải mái ở giữa năm 2022. Lư thuyết là vậy nhưng thực hiện là điều hoang tưởng v́ chẳng làm ǵ có thứ máy móc nào đạt đến vận tốc như thế, lại không có loại trang phục phi hành nào bảo vệ được cơ thể con người trong cuộc hành tŕnh kỳ quái viển vông đi t́m quá khứ ấy. (Lư thuyết này đă được thừa nhận bởi nhà văn Trần Bạch Đằng trong tác phẩm “X.30 phá lưới” khi ông hư cấu giới t́nh báo Mĩ có loại máy ảnh chụp được những h́nh ảnh từng đă xuất hiện trước đó không lâu (tuy hiện tại h́nh ảnh ấy không c̣n nữa). Nếu cuộc bay ngược thời gian như vậy, lại tăng tốc “gấp 10 triệu lần vận tốc ánh sáng (3.000 tỉ km/giây !) th́ chỉ tốn gần 7 năm, tức vào năm 2019 ta sẽ … bắt gặp đủ mặt từ voi mamouth đến những loại khủng long ăn cỏ, ăn thịt cùng vô số loài cầm thú cổ quái khác.

 

Xét về mặt lư thuyết, tuy không thể nào thực hiện chuyến hành tŕnh bay ngược thời gian, nhưng dựa nguyên tắc suy luận kể trên, ta phải thừa nhận một quy luật: với không gian (vũ) có thể xuất hiện các “lỗ đen” nhưng số tinh tú vẫn ngày càng được khám phá và bổ sung thêm nhiều th́ về thời gian (trụ) cũng tồn tại hằng hà sa số sự việc quá khứ. Như vậy, không có “lỗ đen” nào gây thất thoát và luật Hằng tại “thể hiện cho cả Vũ lẫn Trụ”. Những định tinh, hành tinh, tuệ tinh muôn đời c̣n đó th́ trong cái vũ trụ ấy mọi sự cũng c̣n đó, những việc thiện ác loài người gây cho nhau cũng tồn tại bền bỉ như vậy nhưng không ai nhận ra được v́ bản chất của chúng là không có h́nh thể, bất chấp kẻ làm thiện có “báo cáo” hay kẻ làm ác cố “phi tang, chạy tội” th́ những ǵ họ đă làm vẫn được vũ trụ ghi nhận, tích lũy và xử lư dần dần vào thời điểm hợp lư.

 

Ai đảm nhiệm việc xử lư ấy ? – Trời.

 

Mỗi tôn giáo đều có “Ông Trời” riêng của ḿnh. Đó là Jehovah, là Allah, là Thượng đế, v.v… Nho giáo gọi Trời là Thiên. Chữ Thiên được cấu tạo theo phép hội ư: Nhất đại vi Thiên. Câu ấy có nghĩa là chữ Nhất () ghép với chữ Đại () thành chữ Thiên () đồng thời cũng có nghĩa “Đấng lớn nhất là Trời”. Từ định nghĩa đó, người ta nêu ra hướng phấn đấu cho con người chân chính là: “Nhân hi Hiền - Hiền hi Thánh - Thánh hi Thiên” (người b́nh thường có hi vọng trở thành người Hiền (người tài trí), người Hiền hi vọng trở thành bậc Thánh (tài trí tuyệt đối), bậc Thánh hi vọng làm Trời (bậc giúp đỡ cho Trời Đất việc tiến hóa và phát triển). Sách Trung dung chép: “Khả dĩ tán thiên địa chi hóa dục, tắc khả dữ thiên địa tham hĩ”.

 

Quan niệm rằng Thánh nhân là người có khả năng làm “tham tán” cho Trời, Đất. Thoạt nghe có vẻ suy tôn quá đáng đến độ viển vông vu khoát nhưng thật ra t́nh h́nh có vẻ khá đơn giản. Chẳng hạn người ta thống nhất rằng tông chỉ của Trời là “thích sự sống” (Thượng Đế hiếu sinh), “tạo” ra vật này và cho nó “hóa” nên vật khác để mọi vật sinh sôi nẩy nở, thế nhưng lác đác lúc này, lúc khác, nơi này nơi khác, khí hậu và thời tiết gây ra hạn hán, lũ lụt, ḱm hăm sự phát triển gây thiệt hại cho sự sống. Trong trường hợp đó, nếu có người đứng ra tận t́nh giải quyết để duy tŕ cuộc sống, phát triển cuộc sống, thúc đẩy sinh sôi nẩy nở, hoặc t́m ra rồi nhân lên những giống cây, giống con mới mẻ, hiệu quả cao, đấy chính là thánh nhân, là tham tán sự hóa dục của Trời Đất trong tông chỉ “hiếu sinh”. Nhiều tôn giáo cũng đă phong thánh cho các nhân vật có thành tích cụ thể như thế (Chẳng hạn như trường hợp đạo Cơ Đốc phong thánh cho Christophe Columbus).

 

Trở lại khái niệm về Ông Trời.

 

Với đa số áp đảo, người đời thường cho Trời là một…nhân vật siêu h́nh, chỉ lộ ra gương mặt nóng bỏng thiên hạ nh́n thấy hằng ngày, c̣n môi mũi, tóc tai th́ chẳng ai thuật tả được. Mỗi người tùy tiện h́nh dung ra Ông Trời riêng cho ḿnh và như vậy, nếu một con trâu cũng có khái niệm về Ông Trời của ḿnh, tất nó cũng cho…Ông Trời ấy có sừng, và con cá nghĩ rằng ông Trời có vi có vảy lại biết bơi trong nước (!). Có lẽ nhiều người coi bầu trời, da trời, mặt trời đều là vật sở hữu của “Ông Trời” nên người ta đều cảm thấy ḿnh rất gần gũi với Trời thành thử tỏ ra có cảm t́nh yêu kính đặc biệt, coi Trời là ân nhân:

 

Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe.

(Tế Hanh)

 

Lạy trời mưa xuống,

Lấy nước tôi uống,

Lấy ruộng tôi cày,

Lấy đầy bát cơm,

Lấy rơm đun bếp.

(Đồng dao)

Vân vân…

 

Cho đến nay, người duy nhất căm ghét Trời, hỗn xược với Trời có lẽ là Trần Tế Xương (1870 –- 1907).

 

Hơn hai mươi năm thi cử (cộng thêm mười năm đèn sách) họ Trần chỉ đỗ một lần “Tú rốt bảng” khoa Giáp Ngọ (1894) c̣n 7 khoa kia đều hỏng (thi chữ Hán, kẻ đỗ hai lần tú tài được gọi là ông Kép, ba lần là ông Mền, bốn lần là ông Đụp. Ông Đụp mới được bổ dụng như kẻ đỗ cử nhân nhưng dường như chưa có ai phấn đấu đến mức được hưởng ân huệ ấy. Thân phụ Nguyễn Khuyến chỉ đỗ ông Mền rồi bỏ cuộc, nhường chỗ cho Nguyễn Khuyến!)

 

Đau nhất cho Tú Xương là ông đặt rất nhiều hi vọng vào khoa thứ tám, đổi tên ḿnh thành Trần Cao Xương cho…hoành tráng hơn, chắc ăn hơn, nhưng rốt cuộc vẫn hỏng (đó là chưa kể thủ tục cùng lễ vật và ḷng thành có lẽ gây tốn kém cho ông không phải là ít):

 

Rơ thật nôm hay mà chữ dốt,

Tám khoa chưa khỏi phạm trường qui

(Hỏng thi)

 

Thế nhưng khi đọc đề thi, ông lại bối rối nhầm chữ Kiện () ra chữ Tiệp (), thế là phạm trường quy, chịu cảnh “đau quá đ̣n hằn, rát hơn lửa bỏng, tủi bút tủi nghiên, hổ lều hổ chơng” (Phú hỏng thi). Nếu ông Trời rộng ḷng phù hộ cho họ Trần khỏi đọc nhầm chữ trong đề thi, lại phù hộ nốt cho ông đỗ thủ khoa đi nữa th́ chưa chắc ông kịp làm quan v́ chỉ một tháng sau khoa thi ấy, họ Trần bị đột tử trong dịp về ăn giỗ ở quê ngoại.

 

Đau như thế, rát như thế, họ Trần trút căm hờn vào Trời:

 

Tế đổi làm Cao mà chó thế !

Kiện trông ra Tiệp, hỡi trời ơi.

(Theo Trần Thanh Mại)

 

Đây là kiểu đối xấc, đem chó đặt vào địa vị trên cả Trời! Các nhà nghiên cứu đời sau thấy ông cay cú quá đáng với đấng thiêng liêng nên tự ư đổi câu trên một cách gượng gạo:

 

Tế đổi làm Cao nên sự thế !

 

Nguyễn Khuyến sau khi từ quan về làm ruộng ở tuổi 49 gặp phải cảnh mất mùa liên miên, bọn chủ nợ th́ “lăi mẹ lăi con sinh đẻ măi –- Chục năm chục bảy biết làm sao ? (Than nợ) nhưng sự căm oán của ông chừng mực hơn, không thất lễ quá đáng như Trần Tế Xương:

 

Phần thuế quan thu, phần trả nợ

Nửa công đứa ở, nửa thuê ḅ.

(Làm ruộng chốn quê)

 

Nguyễn Khuyến đọ quan vào hàng đứa ở, chủ nợ ngang với ḅ để trút bỏ nỗi niềm cơ cực khốn quẫn trong giai đoạn làm ruộng, mùa màng thất bát, chủ nợ eo xèo, thuế má thúc giục. Nguyễn Khuyến tuân giữ chu đáo phương châm “người quân tử th́ không oán Trời, không trách Người” (quân tử bất oán Thiên, bất vưu Nhân), nên không căm ghét, hằn học với trời như Tú Xương.

 

Sùng kính ông Trời tột độ là những tín đồ Thiên chúa giáo. Trước mỗi bữa ăn, họ đều giữ lễ đọc Kinh “Lạy cha chúng con ở trên Trời”. Mỗi ngày có hơn tỉ người đọc như thế bằng hàng trăm thứ tiếng trong bữa ăn và họ coi bữa ăn ấy là …do Trời ban cho nên họ tha thiết cảm kích ơn Trên ấy.

 

Dửng dưng với Trời nhất, có lẽ là Lăo giáo và Phật giáo.

Lăo Tử phát biểu: “Trời nói ǵ đâu ? Bốn mùa vận hành, muôn vật sinh sôi, Trời nói ǵ đâu!” (Thiên hà ngôn tai ?Tứ thời hành yên, vạn vật sinh yên, thiên hà ngôn tai ? -Đạo Đức Kinh)

 

Theo câu ấy có lẽ Lăo Tử muốn nói là phần Trời, phần Người ai ra phận ấy, chẳng ai nhờ ai, cầu xin ai. Với Lăo Tử, Trời trông như một ông hàng xóm lương thiện có quyền lực đáng nể nhưng không giáng oai tạo phúc cho Người. Chỉ có thế thôi.

 

Cũng trong Đạo Đức Kinh, Lăo Tử đề cập “Đạo Trời là làm hao tốn chỗ có thừa để bù đắp cho chỗ không đủ. Đạo của người th́ không như vậy, làm hao tốn chỗ không đủ để cung phụng cho chỗ có thừa” (Thiên chi đạo, tổn hữu dư dĩ bổ bất túc. Nhân chi đạo tắc bất nhiên, tổn bất túc dĩ phụng hữu dư -– Sđd)

 

Phật giáo th́ chia trời ra nhiều tầng, tín đồ sẽ tái sinh vào các tầng ấy tùy theo mức độ tu hành của ḿnh, Phật không can thiệp được. Mọi con người được đăi ngộ tốt hay xấu đều do những ǵ họ làm trong kiếp sống. Kiếp này làm tốt th́ kiếp sau hưởng tốt, kiếp này làm xấu th́ kiếp sau chịu cảnh ngộ xấu, sự ứng nghiệm ấy có giá trị tuyệt đối, chỉ cần nh́n vào cảnh ngộ một người là suy ra được những ǵ họ đă xử sự ở các kiếp khác. Mọi sự đều bị chi phối từ luật báo ứng nhân quả luân hồi.

 

Phật dạy: “Muốn biết Nhân đời trước th́ xem điều đang nhận được ở đời này. Muốn biết Quả đời sau, th́ xem việc làm ở đời này” (Dục tri tiền thế Nhân, kim sinh thụ giả thị, dục tri lai thế Quả, kim sinh tác giả thị –- Kinh Phật).

 

Như vậy, việc báo ứng thiện ác diễn ra từ kiếp này sang kiếp khác chứ không giải quyết dứt điểm ngay trong một kiếp, tức không chỉ có chuyện…quả báo nhăn tiền. Động cơ báo ứng ấy là Nghiệp. Nghiệp là tổng số kết quả tốt xấu tích tụ từ những ǵ bản thân con người gây ra. Trong quá tŕnh báo ứng theo Nghiệp, có quá tŕnh cộng trừ tự nhiên để có được một hiệu ứng phù hợp. Trời không hề can thiệp vào sự báo ứng tự động của Nghiệp.

 

Với Nho gia, sự can thiệp của Trời có phần tích cực, kịp thời để đương sự có cơ hội thấm thía, ăn năn chứ không dửng dưng như Lăo giáo hay kéo dài trong sinh tử luân hồi như Phật giáo.

 

Theo Nho gia th́ Trời không hề vắng mặt trong cuộc sống mỗi con người.

 

Thiệu Khang Tiết (1011-1077), nhà nghiên cứu Kinh Dịch đời Tống viết:

 

Thiên thính tuyệt vô âm.

Thương thương hà xứ tầm.

Phi cao diệc phi viễn,

Đô chỉ tại nhân tâm.

Nhân tâm sinh nhất niệm,

Thiên địa tất giai tri.

Thiện ác nhược vô báo,

Càn khôn tất hữu tư.

 

 (Trời nghe được cả lúc tuyệt nhiên không có âm thanh ǵ - Xanh xanh biết t́m nơi đâu - Không cao cũng không xa - Đều chỉ ở ḷng người - Ḷng người mới nảy ra ư nghĩ - Trời Đất liền đều biết cả - Thiện ác nếu không báo ứng - Tất là Trời Đất có cách châm chước đắn đo riêng - Minh Tâm Bảo Giám - Thiên Lư)

 

Thái Trọng Lai diễn ca:

 

Trời nghe cả tiếng thinh không,

Xanh xanh thăm thẳm t́m ông nơi nào.

Chẳng xa mà cũng chẳng cao,

Chỉ trong ḷng dạ biết bao con người.

Ḷng người mới nảy ư thôi,

Tức th́ Đất Trời đă biết được ngay.

Thiện ác báo sớm hay chầy,

C̣n tùy cân nhắc đó đây cho vừa.

 

Bài thơ trên của Triệu Khang Tiết xác định:

 

-         Trời là thế lực bản nhiên, quyền lực phi thường chỉ có trong ư thức con người chứ không có ở thực tế.

-         Trời chỉ tồn tại trong ḷng người, mọi hoạt động của ḷng người lập tức động đến ư thức nhạy cảm của Trời. Nói cách khác, khái niệm Trời ở đây rơ ràng là đề cập đến Lương tâm. Trời khởi động công cuộc trừng thiện phạt ác đúng lúc, đúng trong một kiếp, con người thi thố biết bao điều thiện ác lẫn lộn, Trời Đất phải đắn đo riêng, cộng trừ thỏa đáng rồi mới tất toán vào lúc cuối đời chứ không xử lư ṣng phẳng từng điều, từng vụ việc lặt vặt.

 

Nguyễn Du đă ḥa lẫn Phật giáo với Nho giáo trong phần kết Truyện Kiều:

 

Gẫm hay muôn sự tại Trời,

Trời kia đă bắt làm người có thân.

Bắt phong trần phải phong trần,

Cho thanh cao mới được phần thanh cao.

Có đâu thiên vị người nào,

Chữ Tài chữ Mệnh dồi dào cả hai.

Có Tài mà cậy chi tài,

Chữ Tài liền với chữ tai một vần.

Đă mang lấy Nghiệp vào thân,

Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa.

Thiện căn ở tại Ḷng ta,

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.

 

(Truyện Kiều – 3241 - 3252)

 

 

Câu cuối đoạn thơ trên nhắc ta nhớ đến câu thơ thứ tư của Thiệu Khang Tiết trên kia.

 

Sự hiện diện của Trời trong cuộc sống thể hiện rơ nhất trong nghi lễ quốc gia theo chế độ phong kiến. Từ đời Hán, vua chúa phong kiến thường cử hành lễ “phong thiện” trên núi Thái Sơn (có lẽ ngụ ư chọn nơi “gần” Trời nhất !). Tên gọi phong thiện hàm ư rằng Trời “phong” họ làm vua cai trị phần đất dưới gầm trời, tức “thiên hạ” và phong như thế tức là Trời đă nhường (thiện) cho vua cái quyền làm Trời, và vua sẽ… thế thiên hành đạo. Ở Việt Nam, lễ phong thiện tức là lễ tế Nam giao (phong thiện cho “cơi phía Nam”) và các vua mỗi khi ban chiếu dụ đều bắt đầu bằng cụm từ “Thừa thiên hưng vận” (Dựa theo vận hội hưng thịnh của Trời cho). Khi một vua bị lật đổ, tức cái “mệnh” mà Trời “phong thiện” cho họ đă bị thu hồi để trao cho kẻ xứng đáng, hợp ḷng trời hơn. Và như vậy, “mệnh Trời” cũng là thực thể hằng tại. Khái niệm ông Trời không lúc nào vắng trong tâm tưởng con người, “ông Trời” thuộc dạng “vô lượng thọ” (sống lâu không đếm hết) như phật A Di Đà trong Phật giáo. Gọi rằng “ông Trời” đeo đẳng măi măi trong tâm tưởng con người chỉ là cách diễn đạt tương đối, theo tôi, có lẽ con người cảm thấy gần “ông Trời” nhất vào những lúc bị đắm tàu giữa biển cả mênh mông hoặc nghe tiếng rít của c̣i báo động phi cơ địch oanh tạc và người ta dễ dàng…quên tiệt ông ấy lúc đang quay cuồng trong những thú vui trần thế. Mặc dù vậy chưa có tôn giáo hay thế lực chính trị nào phủ nhận thật ḷng sự hằng tại của Trời.

 

Sự hằng tại của vũ trụ kéo theo sự hằng tại của vạn vật như đă đề cập ở phần trên. Muốn kiểm tra chu đáo là bay ngược thời gian với vận tốc lớn hơn ánh sáng. Biện pháp ấy chỉ dựa trên suy luận thuần túy, chưa hề được chứng minh, thừa nhận.

 

Trong thực tế, người ta chỉ có thể thừa nhận qua một số kinh nghiệm. Chẳng hạn vụ việc có liên quan đến nhà chí sĩ Phan Bội Châu (1867-1940). Chuyện này được kể lại ở tác phẩm “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân và một bài báo trên tạp san “Người giáo viên nhân dân” khoảng cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước.

 

Nói đúng ra đấy là chuyện thi cử của ông Đầu xứ Nghệ Phan Văn San (tên cũ Phan Bội Châu).

 

Đầu xứ là tên gọi người hay chữ nhất tỉnh vào thời điểm một Đầu xứ cũ qua đời. Kết quả ấy đạt được bằng cuộc đỗ đầu kỳ b́nh văn ở trường Đốc. Phan Văn San ở Nghệ An hưởng vinh dự ấy, đặc biệt là Đầu xứ một tỉnh vốn nổi tiếng về văn học khoa bảng.

 

Truyện kể rằng, vào thời trai trẻ, thân phụ Đầu xứ San đă chuốc oán với một thôn nữ và cô ta hiện hồn tuyên bố sẽ báo oán đến cùng. Thế là thân phụ ông Đầu xứ bệnh hoạn triền miên, liệt giường hàng chục năm trời, c̣n Đầu xứ San th́ đi thi cứ gặp trắc trở măi, đặc biệt là thường lên cơn đau bụng bủn rủn tay chân, không sao cầm nổi bút làm bài thi được.

 

Ai cũng biết rằng tục lệ thi cử xưa, sĩ tử bị “khủng bố” bằng câu thông báo công khai cho cả thế gian: “báo ân giả tiên nhập, báo oán giả thứ nhập, sĩ tử thứ thứ nhập” (các hồn ma báo ơn vào trước, các hồn ma báo oán vào tiếp theo, sĩ tử lần lượt vào cuối cùng). Trong t́nh cảnh đó, ông Đầu xứ Nghệ bấy giờ luôn mang theo lễ vật, vàng mă vào trường thi, bày cúng khấn vái chí thành nhưng mọi chuyện vẫn như cũ.

 

Khoa Canh Tí (1900), Tổng đốc tỉnh Nghệ An là Đào Tấn quyết ra tay can thiệp, bèn bàn trước với Chủ khảo trường Nghệ năm ấy là Vương Duy Trinh. Đôi bên nhất trí thực hiện kế hoạch họ Đào. Trước lều thi của Đầu xứ San, bố trí hai người lính thể sát tuốt gươm trần đứng dàn hầu (người xưa tin rằng ma quỉ vốn kỵ sắt thép, chỉ cần rải ít cây đinh vào quan tài hay huyệt mộ là hồn ma không dám đi đầu thai hay quậy phá)

 

Quả nhiên khoa ấy Đầu xứ San không bị rắc rối ǵ lại c̣n đỗ thủ khoa vào hàng danh giá nhất lịch sử, các bài thi đều được phê ưu, mà lại ưu “kiêm trị” (trong kỳ thi trường nhất mỗi khóa sinh chỉ cần chọn hai đề trong sáu đề thi quan trường ra, ai làm được cả sáu đề th́ gọi là “kiêm trị”. Điểm từng bài có thấp chút ít cũng vẫn được đỗ). Đầu xứ San thừa th́ giờ làm cả sáu đề lại đạt điểm cao nhất cho cả sáu, đó là chuyện chưa có tiền lệ.

 

Quá xuất sắc như thế nên quan trường đặt làm riêng một bảng sơn son thiếp vàng chạm tên thủ khoa Phan Văn San chứ không công bố chung với danh sách giải ngạch của trường Nghệ.

 

Lễ rước vinh qui về đến đầu làng th́ thân phụ Đầu xứ San trút hơi thở cuối cùng ngay khi nhận được tin báo. T́nh h́nh ấy có thể cho là cuộc báo oán nọ của Âm phủ coi như đă hoàn thành thỏa đáng. Dương pháp chỉ thắng thế tạm thời. Thế nhưng cái chết của thân phụ ḿnh cũng đă chặn đường làm quan của ông Đầu xứ Nghệ v́ ông phải cư tang ba năm.

 

Trong câu chuyện này sự hằng tại của lỗi lầm Thân phụ ông Đầu xứ vẫn không bị triệt tiêu trước “dương pháp” của Đào Tấn hay Vương Duy Trinh mà chỉ là cơn dương thịnh làm cho âm suy, cuối cùng rồi đâu cũng hoàn đấy. Ông thủ khoa trường Nghệ ấy vẫn phải vào Quốc Tử Giám ôn tập, tiếp theo là một thời kỳ dài bôn ba hoạt động chính trị trong và ngoài nước cho đến khi bị Pháp bắt và lănh án an trí ở Bến Ngự năm 1925.

 

Nho gia quan niệm: làm điều thiện sẽ được đáp lại bằng điều thiện. Làm điều ác sẽ bị đáp lại bằng điều ác. Nếu chưa ai nhận thấy báo oán là do giờ giấc chưa đến (Thiện hữu thiện báo - Ác hữu ác báo -– Nhược hoàn bất báo - Thời thần vị đáo - Minh Tâm Bảo Giám - Kế Thiện)

 

Thái Trọng Lai diễn ca:

 

Làm thiện gặp thiện,

Làm ác gặp ác.

Không gặp lúc này,

Th́ gặp lúc khác.

 

Trong kinh nghiệm, ta nhận thấy kẻ làm điều thiện có thể chưa được báo đáp bằng một điều thiện hệt điều thiện kẻ ấy đă làm. Mặc dù vậy, cũng có sự hằng tại của việc thiện kẻ ấy đă làm tự động… lưu vào “hồ sơ” âm pháp th́ mới diễn ra sự báo đáp được.

 

Ngược về quá khứ chừng ngh́n năm, anh chăn trâu Đinh Bộ Lĩnh gặp thời, đánh tan 12 sứ quân rồi lên làm vua, đặt vạc dầu trước sân, nuôi hổ báo trong vườn, chủ trương “dĩ cương chế nhu” (lấy cứng trị mềm), liệu cách làm ấy có bao nhiêu phần thiện, bao nhiêu phần ác ? Và có phải 12 sứ quân đều toàn là người ác cần phải loại trừ toàn bộ ? Tất cả đều làm ác ư ? Chỉ có Đinh Bộ Lĩnh là người thiện ư ? Và câu ngạn ngữ “Một tướng thành công, phơi khô muôn hài cốt” (Nhất tướng công thành vạn cốt khô) chắc ǵ không ngụ ư phê phán cái ác tiềm ẩn tuy sự thành công của tướng ấy có đáng tự hào đến đâu.

 

Đinh Bộ Lĩnh đă chủ trương một đường lối cai trị cứng rắn đến thế, nghiêm ngặt đến thế, quyết liệt đến thế, có nghĩa là tâm trí lúc nào cũng lăm lăm cảnh giác, lăm lăm đối phó để t́m cho ra những kẻ đối lập đáng nếm vạc dầu hay chuồng cọp chứ chẳng hề dễ dăi thờ ơ. Như thế tại sao có những phút thiếu cảnh giác cho cả cha lẫn con, tạo dịp cho Đỗ Thích hành động khi mà chốn Hoa Lư vẫn c̣n nhan nhản đám bộ hạ của 12 sứ ?  Và lời khai đầy tính đối phó của Đỗ Thích (Tại mộng thấy sao rơi vào mồm) mà sử gia coi là lời khai trung thực hay sao ? Nh́n cho thấu đáo, đây rơ ràng là chuỗi báo ứng không nhầm lẫn của thiện ác như đă xác định trong 4 câu độc vận nêu trên. Với những t́nh tiết nọ, có thể coi hành động của Đỗ Thích là hoàn toàn mù quáng, vâng theo Lẽ Trời một cách vô thức để giải quyết việc báo ứng thiện ác do cha con Đinh Bộ Lĩnh - Đinh Liễn đă tạo ra rồi hằng tại trong tự nhiên gây ra mấy cái chết cho Hạng Lang cùng cha con Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, tức là tác động của luật Hằng tại trong Vũ trụ.

 

Một trường hợp khác rất đáng đề cập là chuyện Chế Bồng Nga. Y đáng được coi là Napoleon của nước Chiêm Thành nhỏ bé. Chủ trương của họ Chế vốn được đạo lư cổ điển phê phán là “cùng binh độc vũ” (làm xác xơ quân lính, lấy vũ lực áp đảo) bằng cách mang quân ra đánh Đại Việt tất cả 11 lần. Nhân dân duyên hải Nghệ An, Thanh Hóa cứ đến mùa gió nồm là nơm nớp lo âu, ăn ngủ không yên. Đặc biệt có lần y c̣n tấn công “làm cỏ” kinh thành Thăng Long (làm cỏ: cướp sạch, đốt sạch, giết sạch, không tha cả gà chó). Măi đến lần tấn công thứ 11 vào kinh đô Thăng Long (1390), chẳng rơ v́ vụ việc ǵ, y nổi cơn thịnh nộ với tên tùy tướng Ba Lậu Kê, tên này đào ngũ, đầu hàng quân Đại Việt đúng lúc Trần Khát Chân điều quân đi ngăn chặn. Nhờ tên nọ chỉ điểm đích xác, quân Trần Khát Chân nhắm đúng thuyền của Chế Bồng Nga, tập trung hỏa lực dứt điểm, Chế Bồng Nga chết đuối như kẻ gặp tai nạn bất ngờ. Một nhà quân sự gặt hái nhiều thành công lẫy lừng trong quá khứ, cũng có nghĩa là gây vô số điều ác, thế mà phơi thây nơi chiến địa không chút oanh liệt, nhất là đang ồ ạt tiến hành cuộc xâm lăng. Bỏ ḿnh thật bất ngờ dưới tay một viên tướng trẻ mới 20 tuổi đầu như Trần Khát Chân (cháu sáu đời của Trần B́nh Trọng), đấy c̣n đáng coi thêm là nỗi nhục khác. Sử chép rằng trong lần vâng mệnh vua xuất quân, Trần Khát Chân bi quan đến tuyệt vọng, mặc tang phục vào lạy vua (quyết chắc có đi không về), dè đâu khi bất ngờ gặp tên hàng binh giúp t́nh thế chuyển ngược. Trong trường hợp này, nếu suy nghĩ cho thấu triệt, câu chuyện được xâu chuỗi suốt 11 lần viễn chinh, nghĩa là có sự chi phối của luật Hằng tại, của những sinh linh trong hàng chục năm trời, trong đó có cả Đại Việt lẫn Chiêm Thành chứ không phải là chuyện ngẫu nhiên chốc lát xảy ra cho viên tướng trẻ “ăn may” Trần Khát Chân (1370-1399) rồi viên tướng này cũng bị Hồ Quư Ly giết hại lúc 29 tuổi !.

Việc diễn ra cho triều đại nhà Hồ có vẻ cũng chịu sự chi phối nghiệt ngă của luật Hằng tại khi Hồ Quư Ly mạo nhận ḿnh là ḍng dơi Ngu Thuấn để dựa cớ ấy cải quốc hiệu là Đại Ngu. Ngu Thuấn vốn được lịch sử tôn là thánh vương đại hiếu đại nhân đại đức, sống cách Hồ Quư Ly 3.600 năm, thế mà Hồ Quư Ly chẳng những mạo nhận ḍng dơi đạo đức mà c̣n ra tay diệt chủng tàn bạo sát hại 370 tôn thất nhà Trần vào năm 1399 (cuộc giết hại khủng khiếp nhất lịch sử bấy giờ). Thế rồi 8 năm sau đến lượt tôn thất nhà Hồ cũng bị quân Minh bắt đưa về Kim Lăng, an trí phân tán nhiều nơi đến nay gần như tuyệt tích. Nếu Hồ Quư Ly bớt thông minh đi một chút, bớt tự tin đi một chút th́ nhà Minh cũng không có cớ tạo ra cảnh “núi thây người” ở miền Thanh Hóa, Nghệ An. Rồi lại đến lượt bản thân Trương Phụ, kẻ khát máu khét tiếng, từng dọn “cỗ đầu người” chiêu đăi Nguyễn Biểu, sứ thần nhà Hậu Trần cũng “sa vào rọ” của Thoát Thoát Bất Hoa để bỏ mạng ở Thổ mộc bảo năm 1449 khi đang giữ chức Binh bộ thượng thư triều Minh Anh Tông. Phải thừa nhận luật Hằng tại đă tạo nên một chuỗi oan gia đan cài nhau khá ngoạn mục: Trần <- Hồ <- Minh <-Nguyên. Thực ra chuỗi đan cài này có thể nối thêm một phần trong quá khứ, bắt đầu từ chuyện Lê Hoàn chiếm ngôi vua của Phế đế Đinh Tuệ chỉ bằng một kịch bản đơn giản “Thái hậu Dương Vân Nga mặc hoàng bào cho Lê Hoàn” nghe cóphần hài hước bởi thanh toán một triều đại luôn trả giá cao hơn mới phù hợp với t́nh h́nh lịch sử. Đến lượt nhà Lư soán ngôi nhà Tiền Lê cũng dùng kịch bản tương tự, Lư Công Uẩn được bầu cử công khai và ngẫu hứng cũng lập nổi một triều đại hơn 200 năm. Lại đến nhà Trần, việc soán ngôi diễn ra đẫm máu, Trần Thủ Độ bức tử Lư Huệ Tông, chôn sống 300 tôn thất nhà Lư. Có lẽ đó là lư do trực tiếp cho cuộc bỏ ngôi của Trần Thái Tông, về tu ở chùa Yên Tử một thời gian. Nếu không có những cái chết kia chắc chưa thể xảy ra việc bỏ ngôi đi trốn của một ông vua dựng nghiệp. Việc xuất hiện Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử cũng là chuyện không b́nh thường nếu không v́ vua Trần Nhân Tông đích thân chứng kiến hàng vạn thây quân Nguyên tội nghiệp chết v́ “Đại Tướng Mùa Hè Nhiệt Đới” (tương tự Đại Tướng Mùa Đông của Matxcơva đánh đuổi đoàn quân thiện chiến của Napoleon hồi thế kỷ 19). Chừng ấy vụ việc, rơ ràng là luật Hằng tại tác động dai dẳng trong vũ trụ đă tạo nên sự cắn rứt lương tâm, ăn năn sám hối cho các đương sự lịch sử.

 

Lư lẽ thông thường của những kẻ hành động tàn ác luôn nghĩ ḿnh có toàn quyền, thừa sức lung lạc quốc pháp, mua chuộc dư luận, bưng bít chứng cứ, ngoài ḿnh ra không ai biết được. Những kẻ ấy đâu ngờ rằng cái phần ḿnh đối phó chỉ lay hoay trong phạm vi 5% ngoài sáng, c̣n sau lưng họ 95% nằm trong bóng tối (theo ước lượng thống nhất của giới khoa học vũ trụ) màø trong bóng tối bao la ấy là luật hằng tại, lưu giữ rành mạch và nghiêm ngặt những ǵ mà họ đă dày công che mắt thế gian và tưởng là vô cùng hoàn hảo, chứ không ngờ phải đợi chờ trả giá.

 

Sách Minh Tâm Bảo Giám đă khẳng định:

 

Hành tàng hư thực tự gia tri,

Họa phúc nhân do cánh vấn thùy ?

Thiện Ác đáo đầu chung hữu báo ,

Chỉ tranh lai tảo dữ lai tŕ.

Nhàn trung kiểm điểm b́nh sinh sự,

Tĩnh lư tư lương nhật sở vi.

Thường bả nhất tâm hành chính đạo,

Tự nhiên thiên địa bất tương khuy.

 

Hàm nghĩa mấy câu trên:

 

1.     Ở đời, có kẻ tích cực dấn thân, thi thố đến cạn kiệt khả năng, có kẻ lại ẩn ḿnh tránh xa những cám dỗ của dục vọng trần tục theo kiểu nói kháy của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

 

Ta dại ta t́m nơi vắng vẻ,

Người khôn người kiếm chốn lao xao.

 

Tuy nhiên, làm hay lánh có cấp độ khác nhau, Kẻ tích cực làm chắc chắn (Thực), kẻ tiêu cực làm hời hợt (Hư). Làm cấp độ nào th́ chính người ấy biết lấy, người ngoài cuộc không biết chắc được.

 

2.     Cái Nhân của họa phúc sẽ do cấp độ “hư thực” ấy mà nảy sinh, tự ḿnh biết rơ, chẳng việc ǵ phải hỏi han giới bói toán vận mệnh mới biết được.

 

3 - 4. Làm thiện, làm ác rốt cuộc điều nhận báo ứng cả. Sự báo ứng chỉ giành nhau vụ này báo sớm, vụ kia báo muộn thế thôi.

 

5 - 6. V́ vậy cho nên những lúc rảnh rang nên tự xét những điều thiện ác ḿnh đă làm trong đời. Những đêm khuya vắng lặng hăy nghĩ ngợi về những hành vi, hoạt động của ḿnh trong ngày (Cháu đích tôn của Khổng Tử là Khổng Cấp, tức Tử Tư thầy học Mạnh Tử đă thực hiện như thế ba lần mỗi ngày).

 

7 - 8. Luôn luôn giữ ḷng ḿnh cho chuyên nhất, đă định hướng cho Tâm th́ phải trung thực với cái Tâm ấy, tránh thói xấu “gió chiều nào che chiều ấy”, lúc thế này, lúc thế khác, xoay chiều theo lợi ích cá nhân, theo nhu cầu giai đoạn. Phải đi theo đường chính, không lạc bước theo hướng bất chính th́ tự nhiên Trời Đất sẽ không gây sứt mẻ ǵ cho ḿnh.

 

Thái Trọng Lai diễn ca:

 

Ḿnh làm, ḿnh tránh tự ḿnh hay,

Họa phúc nảy mầm, khỏi hỏi ai.

Thiện ác cuối cùng đều báo ứng,

Khác nhau chỉ có sớm hay chầy.

Rảnh rang kiểm điểm việc làm cũ,

Đêm vắng nghĩ suy việc của ngày.

Cứ giữ ḷng ngay theo nẻo đúng,

Đất Trời sẽ xử chẳng oan sai.

 

Trời lưu trữ, bảo quản hồ sơ thiện ác của con người kỹ lưỡng đến thế rồi xử lư cương quyết như thế. Đấy là giáo điều cơ bản của nho giáo. Giáo điều ấy là luật Hằng Tại trong vũ trụ.

Cũng trong sách công cụ ở trên có những câu:

 

Thuận thiên giả tồn,

Nghịch thiên giả vong.

Mưu sự tại nhân,

Thành sự tại thiên.

Nhân nguyện như thử, như thử,

Thiên lư vị nhiên, vị nhiên.

Thực qua đắc qua,

Thực đậu đắc đậu.

Thiên vơng khôi khôi,

Sơ nhi bất lậu.

Tử sinh hữu mệnh,

Phú quư tại thiên.

 

Nghĩa:

Thuận lẽ trời th́ c̣n,

Ngược lẽ trời th́ mất.

Tính việc ở người,

Nên việc ở trời.

Người mong như thế, như thế,

Lẽ trời chưa vậy, chưa vậy.

Trồng dưa được dưa,

Trồng đậu được đậu.

Lưới trời lồng lộng,

Thưa mà chẳng lọt.

Chết sống có mệnh,

Giàu sang tại Trời.

 

Thái Trọng Lai diễn ca:

 

Thuận lẽ trời người mới c̣n,

Không thuận lẽ ấy khó ḷng yên thân.

Toan tính là việc cá nhân,

Việc thành hay bại chỉ vâng lẽ trời.

Nguyện vọng người mong là như thế,

Nhưng lẽ Trời chưa thể làm vừa.

Trồng dưa mới được ăn dưa,

Trồng đậu ăn đậu, từ xưa thế rồi.

Lưới trời lồng lộng đấy thôi,

Tuy thưa chưa để lọt người nào đâu.

Sống chết số mệnh định rồi,

Giàu sang cũng phải nhờ Trời giúp nên.

 

Lăo giáo, Phật giáo, Nho giáo đều quan niệm có Trời, một đấng quyền uy rất mực. Trời của Lăo giáo khá độc lập, hành sự đúng đạo lư, lấy chỗ có thừa bù cho chỗ chưa đủ chứ không vô lư như con người, lấy chỗ chưa đủ để cung phụng cho chỗ dư thừa (thiên chi đạo, tổn hữu dư, nhi bổ bất túc. Nhân chi đạo, tất bất nhiên, tổn bất túc, dĩ phụng hữu dư -Đạo Đức Kinh). Trời của Phật giáo c̣n thờ ơ hơn, chỉ hiện diện lấy có, hoàn toàn không can thiệp đến mọi hành xử của người đời, mặc kệ cho con người (chúng sinh) ch́m đắm trong cơi vô minh mặc t́nh gây nên nghiệp dữ để rồi chịu đắm ch́m trong vực xoáy nghiệt ngă của bến mê bể khổ. Trời của Nho giáo có vẻ hợp tác với Phật giáo ở chỗ mặc kệ cho con người gây điều thiện ác rồi gồng ḿnh mà gánh nhận đầy đủ quả báo đúng giờ giấc nào đó, và Trời … giám sát chặt chẽ chứ không gài số tự động như ở Phật giáo. Và cả ba luồng tư tưởng ấy nghiễm nhiên thừa nhận sự hằng tại của vật chất, phi vật chất, phản vật chất trong vũ trụ.

 

 

PHẦN THỨ TƯ

 

CHỮ HỊA TRONG LUẬT HẰNG TẠI CỦA VŨ TRỤ

 

Trong suy nghĩ b́nh thường th́ vũ trụ hiện hữu hoàn toàn tự nhiên, không tuân theo quy luật nào cả. Thế nhưng nho gia quan sát, suy nghiệm nghiêm túc và nhận ra luật hằng tại của chữ Ḥa.

 

Trong văn tự biểu ư khá minh triết của người Trung Quốc, chữ H̉A được cấu tạo theo bộ Khẩu () đi kèm chữ H̉A ( ) có ư nghĩa là thóc lúa, xác định âm đọc, hợp thành chữ H̉A ( ) có nghĩa là ḥa đồng với nhau. Dân gian ta có câu nói “lúa thóc đâu bồ câu theo đấy”, câu ấy ngẫu nhiên minh họa khá sắc sảo cho chữ H̉A rằng có lúa thóc th́ mới có ḥa b́nh (!)

 

Trong phạm vi vĩ mô, Nho gia nhận định quy luật của vũ trụ là đạo Thái ḥa (hài ḥa một cách vĩ mô). Do đó, nam nữ b́nh đẳng là hợp đạo thái ḥa, sẽ hằng tại trong vũ trụ, mọi kỳ thị là gây ra bất ḥa, trái với luật hằng tại. Thuyết Siêu nhân của Nietzsche (1844-1900) là ngụy thuyết phá vỡ đạo Thái ḥa tạo điều kiện cho Hitler (1889 - 1945) lạm dụng để giết hại hàng triệu dân Do thái, lại c̣n lập ra những trại “Suối Đời” để…nhân giống chủng tộc Aryen là chủ trương điên rồ vô đạo, đặc biệt làm bại hoại đạo Thái ḥa.

 

Theo nho giáo, đúng ra là theo nguyên lư cấu trúc chữ biểu ư, Ḥa là chuyện của … miệng, biểu thị bằng chữ Khẩu () như đă nói trên.

 

Ngạn ngữ xác định vai tṛ của “Khẩu” bằng câu “Bệnh ṭng khẩu nhập, họa ṭng khẩu xuất” (bệnh vào đằng miệng, họa ra đằng miệng).

 

Vế đầu của câu ngạn ngữ này xin hăy dành cho ngành y tế. Vế sau mới là điều cần bàn. Vế đầu nhằm vào chức năng của Ăn, vế sau rơ ràng là nhằm vào Nói.

 

Khởi điểm của chữ H̉A, tức chức năng của Nói chủ yếu đề cập việc…lời qua tiếng lại. Ngày nay th́ nói bao gồm chức năng khá rộng răi của báo in, báo nói, báo h́nh, báo mạng… Mầm mống của H̉A bắt nguồn từ đó, mà của BẤT H̉A cũng bắt nguồn từ đó.

 

Chữ H̉A không thể lùi xa chữ THUẬN. Bản chất của H̉A là thuận theo đối tượng. Có đồng thuận th́ mới ḥa hợp được. T́m được sự đồng thuận giữa vợ chồng th́ “tát bể Đông cũng cạn”. Đó là kinh nghiệm, là túi khôn ngh́n đời của loài người. Trong cuộc sống thường ngày, không ít người cạn nghĩ, cho rằng không thuận với người khác th́ mới nổi trội hơn, mới độc đáo hơn, mới có khả năng khống chế, áp đảo hơn và họ ngây thơ cho rằng đấy là bản lĩnh đích thực của đấng trượng phu. Ư nghĩ ấy chỉ phù hợp trong lĩnh vực t́m ṭi, nghiên cứu, phát minh, sáng chế chứ không thích hợp với đạo cư xử, bởi sự hằng tại của vạn vật phải tuân theo đạo Thái ḥa. Trạng Tŕnh Nguyễn Bỉnh Khiêm ở thế kỷ XVI đă tạo nên cụm từ “Thái ḥa vũ trụ” để xác định nguyên lư hằng tại ấy.

 

Chữ H̉A chỉ phát huy giá trị khi nó thuận theo cái Hay, cái Đúng. Thuận theo cái sai th́ chỉ là Hùa. Hùa có âm gần gũi với Ḥa, có lẽ nó là mặt trái của H̉A. Những phần tử về hùa luôn luôn không phải là tuân đạo Thái ḥa một cách chân t́nh mà là kẻ lười suy nghĩ hoặc chỉ chăm suy nghĩ theo hướng lợi dụng, lạm dụng ích kỷ hại nhân.

 

Túi khôn dân gian đă dành cho kẻ về hùa những lời miệt thị như “theo đóm ăn tàn”, “theo voi ăn bă mía”. Do đó, Ḥa phải dựa trên sự chọn lựa, cân nhắc đắn đo, có lúc ḥa với người khác nhưng có lúc phải thuyết phục người khác Ḥa với ḿnh khi lập trường của ḿnh trong sáng hơn, hợp đạo lư hơn, bởi lẽ biến âm của H̉A là HUỀ, không ai kém thế hay thắng thế ai.

 

Kẻ đánh giá cao tinh thần Thái ḥa là kẻ hiếu ḥa. Đối lập với kẻ hiếu ḥa là kẻ hiếu thắng tức hiếu chiến. Kẻ hiếu thắng quan niệm cuộc đời là trường tranh đấu, chỉ có thắng hay là chết. Kẻ hiếu thắng miệt thị kẻ chủ ḥa là chủ bại. Họ không chịu quan sát quanh ḿnh là kẻ hiếu ḥa thường sống thọ hơn, ngũ tạng ổn định hơn. H̉A có vẻ lép vế trước cuộc đời (nhưng thâm tâm kẻ chủ ḥa lại thấy ḿnh thắng thế nên không cảm thấy thất bại, mà c̣n tự hào hơn, chính điều này tạo nên bản lĩnh và nghị lực cho kẻ hiếu ḥa), chính kẻ hiếu ḥa mới là kẻ thắng lợi cuối cùng. Lăo Tử quan niệm “hậu kỳ thân nhi thân tiên, vong kỳ thân nhi thân tồn” (đặt thân ḿnh phía sau th́ thân mới lên phía trước, đặt thân ḿnh vào nơi mất th́ thân mới c̣n - Đạo Đức Kinh). Chính v́ thế Lăo Tử đă tự hào: “Ta có ba vật quư báu, một là hiền lành, hai là tiết kiệm , ba là không dám vượt lên trước thiên hạ” (Ngă hữu tam bảo, nhất viết Từ, nhị viết Kiệm, tam viết Bất cảm vi thiên hạ tiên - Đạo Đức Kinh). Kẻ hiếu thắng chắc sẽ bĩu môi chê bai lời phát biểu kém khí thế nọ của Lăo Tử, chẳng qua v́ suy nghĩ hời hợt, chủ quan cho rằng đă “hiếu” tất phải “thắng” mà không nghĩ rằng may ra cũng chỉ thắng một cách phiếm định nhất thời, khó duy tŕ cho bền vững, lâu dài, ngay với kẻ lập được kỷ lục Guinness ! Nh́n chung kẻ hiếu thắng cho dù đạt được kết quả mỹ măn th́ sự đắc ư nhất thời ấy không thể nào bù đắp cho sự lo lắng nơm nớp thường trực cùng chấp nhận biết bao thiệt hại lớn lao khôn lường khi kỷ lục nọ bị vượt qua.

 

Có lẽ nhân vật tuân giữ đạo Thái ḥa xuất sắc nhất, đạt thành quả mỹ măn nhất mọi thời là Gandhi (1869-1948) của Ấn Độ. Giành độc lập cho một tổ quốc mênh mông 3.600.000km2 mà không hề dùng đến súng đạn bom ḿn, không dụ dỗ khích lệ hi sinh xương máu anh hùng nghĩa sĩ tương xứng với số nạn nhân của bao nhiêu dân tộc nhỏ bé khác, có lẽ đáng cho là trường hợp duy nhất, không tiền khoáng hậu trong lịch sử loài người. Trong khi đó, một nước nhỏ như Campuchia đă phải đánh đổi một phần ba dân số cả chính nghĩa lẫn phi nghĩa cho nền độc lập nước ḿnh.

 

Tuy trên thế giới vẫn xảy ra nơi này nơi khác bom rơi đạn nổ, bắt cóc, chặt đầu làm rạn nứt đạo Thái ḥa nhưng sự xâm hại đạo Thái ḥa cũng không thể xóa đi được sự hằng tại của đạo nọ. Trong những cuộc chiến tàn khốc, vẫn có xen vào những lúc…Mặt trận phía Tây vẫn yên tĩnh (tên một tác phẩm). Mọi sự gây hấn chỉ là những cơn rồ dại tức khí nhất thời khó thể kiềm chế. Chữ H̉A mới thực sự là chân lư của sự sống và cũng là điều kiện tiến hóa của nhân loại.

 

Bàn về chữ H̉A, sách Trung dung đă đi sâu hơn vào ư nghĩa triết lư của chữ ấy:

 

-         Hỉ nộ ai lạc chi vị phát vị chi TRUNG, phát nhi giai trúng tiết vị chi H̉A. Trung dă giả, thiên hạ chi đại bản dă, Ḥa dă giả, thiên hạ chi đạt đạo dă. Trí TRUNG H̉A, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên. (Trung dung)

 

Mừng giận buồn vui chưa phát ra gọi là TRUNG, phát ra đúng dịp gọi là H̉A. Trung là gốc lớn của thiên hạ, Ḥa là sự đắc đạo của thiên hạ. Đạt đến mức TRUNG H̉A thỏa đáng th́ trời đất ổn định, muôn vật sinh sôi.

 

Chữ H̉A của Trung dung nhấn mạnh sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tâm hồn chân chính với vũ trụ ngoại tại. Niên hiệu Quang Trung (sáng tỏ cái trung) được đặt theo tinh thần trung ḥa này. Đó là kết quả của những tư duy sâu sắc của các nho gia lớn đương thời đang phục vụ cho triều đại Tây Sơn như: Nguyễn Thiếp (La Sơn phu tử), Đ́nh nguyên Nguyễn Thế Lịch, các Tiến sĩ Phan Huy Ích, Ngô Th́ Nhậm….

 

Như vậy đạo Thái ḥa không chỉ là nhu cầu của đối nhân xử thế mà c̣n là sự ḥa hợp của tiểu vũ trụ con người với đại vũ trụ Tự nhiên.

 

Nho gia đề cao đạo Thái ḥa có thể coi là một thông điệp vô cùng lớn lao gởi đến nhân loại mọi thời. Mọi hướng tư duy đều phải t́m về nó để gột rửa bao nhiêu tham vọng xấu xa, đen tối làm lu mờ đi tính bản thiện của con người. Đấy là tinh thần yêu ḥa b́nh chân xác nhất, trong sáng nhất, đắc đạo nhất.

 

Nhân vật rao giảng đạo Thái ḥa rất đáng ngưỡng mộ có lẽ là Vương Duy (699-759) đỗ Trạng nguyên (c̣n được suy tôn là Nam tổ của Họa phái Trung quốc) qua bài Quan liệp (Xem cuộc săn). Đấy là quang cảnh một đàn tướng sĩ hùng hổ xông xáo phóng ngựa vùn vụt, cung tên rít gió rồi rầm rộ kéo về doanh trại bao la ṭa ngang dăy dọc của đạo quân Chu Á Phu đời Hán, bỏ lại đằng sau họ cảnh vật im ĺm lặng lẽ mênh mông:

 

Hồi khan xạ điêu xứ,

Thiên lư mộ vân b́nh.

Vương Duy

 

Quay nh́n vùng săn bắn,

Muôn dặm mây chiều giăng.

Thái Trọng Lai dịch

 

Chính thứ cảnh trí êm đềm lặng lẽ ấy mới thực là cảnh trí tự nhiên của vũ trụ, c̣n những cuộc chiến (săn bắn) chỉ là dạng cuồng hứng “xả stress” nhất thời của loài người mà thôi. Bản chất vũ trụ là sự Hằng tại của Thái ḥa.

 

 

 

PHẦN THỨ NĂM

 

CHỮ NHÂN TRONG LUẬT HẰNG TẠI CỦA VŨ TRỤ

 

Trong văn tự biểu ư của Trung Quốc, chữ NHÂN () được cấu tạo theo bộ Nhân ()là người, bộ phận vừa chỉ âm đọc vừa mang ư nghĩa (hài thanh kiêm hội ư). Phần c̣n lại là chữ Nhị () có nghĩa là Hai. Ngụ ư ở đây là khi đă có hai người th́ đôi bên cần phải xử sự với nhau trên cơ sở của đức Nhân (Bởi lẽ theo Aristoteles (384 -322 trCN), triết gia Cổ Hi Lạp th́ “Người là loài vật bầy đàn” thành thử Nhân là đức tính hằng tại cốt yếu). Khi nào c̣n con người, tất phải c̣n cần đến chữ Nhân mới duy tŕ được bầy đàn.

Khổng Tử bảo với học tṛ: “Ngô đạo nhất dĩ quán chi ” (Đạo lư của ta là một nhưng bao trùm tất cả - Luận ngữ). Đám đệ tử ngơ ngác mới nhờ Tăng Tử giảng giải, Tăng Tử bảo: “Phu Tử chi đạo, TRUNG THỨ nhi dĩ hĩ” (Đạo của thầy là ngay thẳng và dung thứ mà thôi vậy - Luận ngữ). Vậy cốt lơi của NHÂN là TRUNG THỨ (NHÂN = TRUNG + THỨ).

Như vậy, chỉ cần một chữ NHÂN là đủ sức tác động lên Ngũ luân, Ngũ thường, Tam ṭng Tứ đức, là những đầu mối của đạo làm người.

 

Ngũ luân là năm mối liên kết nền tảng cho xă hội quốc gia gồm:

 

1.     Vua tôi.

2.     Cha con.

3.     Anh em.

4.     Chồng vợ.

5.     Bạn bè

 

Quan hệ vua tôi đ̣i hỏi vua phải sáng suốt, tôi phải tài năng (minh quân hiền thần). Hai phía phải có ḷng nhân th́ mới sáng, mới hiền được. Nếu đă bất nhân th́ chỉ thành hôn quân, ám chúa, nịnh thần, gian thần chứ không thể đạt được thành quả tuyệt vời của mối quan hệ.

 

Tuy nhiên, điều cốt yếu là cả vua lẫn tôi phải có ư thức giúp nhau hoàn thiện tư cách mỗi bên chứ không phải hùa nhau làm điều vô đạo. Nếu một bên gây điều tệ hại th́ bên c̣n lại phải đánh giá và quyết tâm xử sự theo đạo lư, gác bỏ mọi hệ lụy để một ḷng v́ dân v́ nước, sẵn sàng triệt bỏ thẳng tay kẻ tồi tệ. Đó là lư do vua Kiệt bị đi đày, vua Trụ bị lật đổ. Mạnh Tử bảo hai vua ấy tàn hại dân lành nên đă trở thành kẻ thất phu, thành thử triệt bỏ họ chỉ là trừ bỏ kẻ thất phu chứ không phải triệt bỏ ông vua chân chính.

 

Vua chúa ở các triều đại khác trong lịch sử một khi bị triệt bỏ cũng cùng lư do ấy. Họ không c̣n là minh quân nữa và họ phải trả giá. Vấn đề ở đây là kẻ “thay Trời làm đạo lư” (thế thiên hành đạo) phải là hiền thần chứ không phải gian thần, v́ quốc dân chứ không v́ quyền lợi bản than hay bè phái.

 

Trong quan hệ cha con th́ cha phải hiền từ, con phải hiếu thảo (phụ từ tử hiếu). Chính đức NHÂN đă tác động nên các tính cách ấy. Nếu một ông bố dơng dạc dạy con theo cái kiểu:

 

Con ơi, học lấy nghề cha

Một đêm ăn trộm bằng ba năm làm.

 

Trong trường hợp ấy, con không can bố là bất hiếu, là trái đạo v́ để bố ḿnh đánh mất nhân cách, làm loạn cho mối quan hệ cha con bởi trong gia đ́nh, kẻ làm cha phải có thái độ nghiêm túc để giữ giềng mối gia đ́nh, nêu gương tốt cho con cái.

 

Quan hệ anh   em đ̣i hỏi người anh phải thân thiện, tôn trọng em, coi em như bạn ḿnh. Người em phải quư anh, cung kính anh tuyệt đối (huynh hữu đệ cung) không được xử sự “cá đối bằng đầu”, cho rằng ai cũng đều do bố mẹ sinh ra cả.

 

Trong xử sự anh em, từ ngữ “quyền huynh thế phụ” ngụ ư là tạm dùng anh thay cha, tức cách xử sự theo quyền biến chứ không theo quyền hành và trong t́nh nghĩa vẫn là “huynh hữu đệ cung”. Nếu quả là cần phải đôn vai anh lên thế cha tất phải gọi là huynh quyền thế phụ mới thuận chiều ngữ pháp như trong các từ thông dụng dân quyền, nữ quyền.

 

Chữ NHÂN phải bao trùm quan hệ này tích cực hơn hết, nếu thiếu NHÂN, vô số tệ nạn xảy ra ảnh hưởng nặng nề đến gia đ́nh, họ hàng và xă hội.

 

Quan hệ chồng    vợ đ̣i hỏi chồng phải đủ tŕnh độ điều hành, uy tín lănh đạo, nêu ra đường lối cư xử đúng đắn, việc làm cần thiết, vợ phải ngoan ngoăn chấp hành (phu xướng phụ tùy) nếu gặp phải người chồng bất nhân, đổ đốn, dám dạy con “học lấy nghề cha” như trên và người vợ ngoan ngoăn chấp hành theo tư cách ṭng phạm là hỏng. Chữ NHÂN phải can thiệp mạnh, phải bao trùm cho kỹ mối quan hệ này “đạo người quân tử mở mối ở đạo chồng vợ” (quân tử chi đạo, tạo đoan hồ phu phụ - Trung dung).

 

Trong đạo chồng vợ chữ NHÂN cũng kèm theo chữ H̉A ở phần II mới phát huy hết chất lượng cuộc sống chung.

 

Luân thứ năm trong Ngũ luân là bè bạn. Nó bị xếp hạng cuối cùng nhưng thực chất nó lại chi phối toàn bộ sinh hoạt, giao tiếp của loài người. Đă có người dựa vào kinh nghiệm phát biểu rằng: “Trong cuộc sống, người ta thà không có vợ chứ không thể không có bạn”.

 

Thật ra, trừ quan hệ anh em có mang chữ Hữu (huynh hữu đệ cung) nhưng các mối quan hệ kia (vua tôi, cha con, vợ chồng) cũng cần rất nhiều đến tinh thần hữu ái (t́nh yêu bạn bè). Các đối tượng trên có coi nhau như bạn th́ mọi sự mới hoàn hảo, mới nhất trí, mới phát triển hài ḥa.

 

Trong quan hệ bè bạn, ḷng tin cậy nhau là cơ sở tất yếu. Những người đa nghi, cẩn trọng họ không cần đến bạn để pḥng chuyện tai hại. Khi đă bất tín, t́nh bạn không thể tồn tại một cách chân thực. Kẻ bất nhân th́ chẳng mong ǵ giữ chữ TÍN, chính tính cách mong manh ấy cho nên tuy bạn bè là thứ không thể thiếu nhưng lại rất dễ bất ḥa, dễ tan vỡ, có lẽ v́ vậy mà nó bị xếp vào hạng cuối của ngũ luân.

 

Bên cạnh Ngũ luân c̣n có Tam cương. Nho giáo coi Ngũ luân là đạo trời, Tam cương là đạo người. Có lẽ người ta gọi ngũ luân ngũ thường nhưng có lúc người ta cũng gọi Tam cương Ngũ thường để chỉ cốt tủy của Nho giáo.

 

Tam cương là ba dây giềng của tấm lưới quốc gia, xă hội. Có dây giềng ấy th́ các dây lưới có chỗ bu bám và lưới mới hữu dụng. Mất dây giềng cả tấm lưới trở nên xộc xệch, vô dụng. Vua là dây giềng của bề tôi (quân vi thần cương). Các vua Kiệt, Trụ đă làm mất nhà Hạ, nhà Thương v́ không giữ vững “dây giềng” ấy. Cha là dây giềng cho con (phụ vi tử cương). Nếu cha “dạy” con theo kiểu hài hước như trên th́ gia đ́nh trở thành…chiếc lưới rách. Trong đạo vợ chồng th́ chồng là dây giềng của vợ (phu vi thê cương) do đó mới có cụm từ “phu xướng phụ tùy”.

 

Ngũ thường là năm đức tính thường xuyên cần đến trong giao tiếp. Thứ tự quan trọng của năm đức ấy là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Tuy nhiên Ngũ thường không tách biệt mà luôn kèm cặp ăn ư nhau: kẻ bất Nhân tất cũng bất Nghĩa, bất Tín, vô Lễ, v.v…

 

Chữ Nhân đă bàn nhiều, ở đây xin bàn kỹ chữ Nghĩa.

 

Mạnh Tử định nghĩa: “Nghĩa dă sự đương vi” (Nghĩa là việc nên làm). Giúp cái ăn cho người đói, bênh vực kẻ yếu bị hiếp đáp, chữa trị người đau ốm, thương tích, v.v… đều là việc nên làm, và làm như thế là làm Nghĩa. Đền đáp ân huệ kẻ ra tay cưu mang ḿnh lúc sa cơ lỡ vận đấy là báo đền ơn nghĩa, là ăn ở có t́nh nghĩa, không làm như vậy là kẻ bất nghĩa. Đỉnh cao của nghĩa là tinh thần hiệp nghĩa, xả thân cứu người “giữa đường thấy sự bất b́nh, Làm cho đổ quán xiêu đ́nh mới nghe”.

 

Lễ là cái làm cho con người trở nên có tŕnh độ cao hơn mọi loài.

 

Chữ LỄ () cũng cấu tạo theo phép hội ư, gồm có bộ Thị () có nghĩa là răn bảo, răn dạy, phần c̣n lại là chữ Phong () có nghĩa là dồi dào (phong phú). Toàn chữ Lễ ngụ ư nhắc nhở điều quan trọng là muốn con em biết lễ độ, lễ phép. Người ta phải răn dạy bảo ban thật nhiều và thật nhiều mới đạt kết quả như ư. Đừng nghĩ rằng cứ buông lỏng mặc t́nh lớn lên tự nhiên con em ḿnh sẽ tự biết đạo cư xử nhờ bắt chước người khác. Khá nhiều người đă có quan niệm đúng đắn, sự quan tâm thường xuyên ấy của chữ LỄ nên từ thuở con em c̣n thơ, người ta đă tập cho trẻ khoanh tay, cúi đầu, “ạ”, v.v... Tuy nhiên cũng không ít người coi việc dạy chữ Lễ kiểu ấy, đơn giản chỉ là tập vài tiết mục ăn khách để tŕnh diễn. Do đó, lúc bé trẻ có vẻ ngoan ngoăn có thừa, nhỉnh lên một chút là lắm bậc cha mẹ có vẻ khoái chí một cách bệnh hoạn khi thấy con ḿnh mới tí tuổi đầu đă đạt tŕnh độ cao về chửi thề, văng tục… chả chịu kém ai.

 

Chữ LỄ thường đi kèm với chữ NHƯỢNG. Người giữ Lễ luôn tôn trọng người khác trong giao tiếp. Người ta gọi người ḿnh giao tiếp là quư khách, quư vị, quư công tử, quư tiểu thư, v.v… và tự xưng là thảo dân, hạ quan, tiện nội, tệ xá, v.v… Kẻ giữ lễ phải biết chào quốc kỳ, cử quốc ca khi làm lễ. Đến cơ quan nhà nước phải xuống xe, tắt máy, không nhấn c̣i, v.v…

 

Không lễ nhượng, xă hội sẽ xô bồ, hỗn độn, mất văn hóa văn minh. Kinh Thư gọi t́nh trạng ấy là “gần với chim muông” (cận ư cầm thú) cần được khai tử.

 

TRÍ cũng có công dụng như Lễ trong việc thể hiện nhân cách. Kẻ mất trí, cuồng trí mặc nhiên bị loại khỏi cuộc sống, cộng đồng, không bị chế tài về hành vi của họ. Khi không c̣n khả năng suy nghĩ, con người đă đánh mất tính người, chỉ c̣n lại thú tính. Kẻ côn đồ, kẻ cậy quyền cậy thế để hiếp đáp người khác, thực chất là những kẻ thuộc loại mất trí ấy.

 

Sách Luân lư giáo khoa thư trong bộ sách giáo khoa bậc tiểu học do nhóm Trần Trọng Kim biên soạn có bài viết thú vị kể chuyện một công tử dạo phố cùng thầy học. Gặp một đứa trẻ rách rưới chắp tay vái chào, vị thầy học nọ trịnh trọng cúi đầu chào lại. Công tử sửng sốt hỏi:

 

-         Sao tiên sinh vái chào một đứa trẻ hèn hạ như vậy ?

 

Vị thầy học điềm đạm đáp:

 

-         Ta chào nó để khỏi bị mang tiếng là ta không lễ phép bằng nó.

 

Câu trả lời đơn giản mà vô cùng thâm thúy.

 

Sách Nam Hoa Kinh của Trang Tử có câu: “kẻ hoàng vương sợ ǵ lễ nghi” ám chỉ một sự thật tâm lư là lắm kẻ tự cho địa vị ḿnh là chí tôn, hiên ngang “đạp lên lễ phép”, ngông nghênh tự măn, tự đắc, tự cho như thế mới tỏ rơ oai quyền, buộc mọi người phải kiêng nể mà không có ư thức bổn phận phải nêu gương tốt của ḿnh, không hề biết rằng chính ḿnh mới là kẻ dễ bị quần chúng săm soi, xét nét nhất, chỉ trích nhất, cần giữ lễ nghiêm ngặt nhất.

 

Phải là người TRÍ như vị thầy học nọ mới có lối xử sự phải cách, vừa giữ uy tín cho ḿnh, vừa dạy đạo lư cho người học tṛ quyền quư của ḿnh.

 

Chữ TÍN đứng vị trí cuối bảng Ngũ thường có lẽ v́ phạm vi tác động của nó có tính lỏng lẻo, phiếm định thường bị hy sinh nhất nên chỉ dành cho mối liên quan của cuối bảng Ngũ luân, tức dành cho đạo cư xử bạn bè.

 

Chữ TÍN () cũng cấu tạo theo phép hội ư của văn tự Trung Quốc.

 

Phía trái chữ Tín là bộ Nhân () chỉ Người. Phía phải là chữ Ngôn () nghĩa là lời nói, gộp nghĩa hai bộ phận ấy là Lời-nói-của-người hoặc Lời-nói-với-người. Người nói phải nói thật ḷng ḿnh mới khỏi bị người nghe nghi ngờ. Không ít người tự biết là lời ḿnh chẳng đáng tin cậy mười mươi thế nhưng vẫn nói bừa, do tự tin lố bịch rằng lời ấy vẫn lọt tai người khác v́ họ “ngu dại” hơn ḿnh ! T́nh h́nh này lộ rơ trong ngôn ngữ quảng cáo hàng hóa.

 

TÍN là điều kiện cơ bản trong nghĩa bạn bè nhưng bạn bè vốn có nhiều cấp độ nên chữ TÍN cũng co dăn.

 

Sống sau Khổng Tử ngót hai thế kỷ, nhân loại đông đúc hơn, Mạnh Tử (372 - 289trCN) nâng chữ Tín lên tầm vĩ mô, coi đấy là động cơ chủ lực của cuộc sống. Cụ Mạnh phát biểu: “Người mà không có đức TIN th́ không biết tích sự ǵ. Xe lớn không trục, xe nhỏ không càng th́ lấy ǵ đi được” (Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dă. Đại xa vô nghê, tiểu xa vô ngột, kỳ hà dĩ hành chi tai ? - Mạnh Tử)

 

Như vậy, mọi sự trên đời đều vận hành trôi chảy là nhờ ở đức TIN. Nói cụ thể, đấy là ḷng Tự Tin. Kẻ không tin vào bản thân là rơ ràng không thể đạt được bất cứ thành quả ǵ. Nói cách khác, tin vào bản thân cũng cần có ḷng Nhân, biết thương ḿnh cái đă. Nếu tự khinh ghét ḿnh đến độ không thể tin cậy được th́ quả là…bất nhân. Bởi kẻ có tính khi như vậy, th́ đừng ḥng kẻ ấy tử tế với cả những người thân yêu t́nh nghĩa.

 

Tăng Tử cắt nghĩa NHÂN là TRUNG THỨ. Vậy hai chữ ấy nghĩa là ǵ ?

 

Theo cấu trúc biểu ư của văn tự Trung Quốc, TRUNG () được biểu hiện hai ư: ư thứ nhất là chữ Trung () có nghĩa là ở trong, ở giữa, phía dưới là chữ Tâm () có nghĩa là Tim, là Ḷng(chữ Tâm tượng h́nh quả tim được cách điệu).

 

TRUNG () là chuyện giữa quả tim, không vương vấn, không chịu sự điều phối của bất cứ thứ ǵ ngoài quả tim, ngụ ư thật ḷng triệt để, một cách cứng cỏi, là người ngay thẳng (trung trực). Kẻ hưởng bổng lộc của vua, cụ thể là nhận lương nhà nước, tất phải ngay thẳng với vua, với nước, không a dua, xu nịnh để chiều ḷng, hưởng lợi. Giữa người với người, TRUNG là ăn ở ngay ḷng, lời nói đi đôi với việc làm.

 

Chữ THỨ () gồm chữ NHƯ () (bằng nhau) và chữ Tâm (). Tha thứ, dung thứ, lượng thứ đều có nghĩa ấy. Thứ là làm đúng như ḷng ḿnh (như tâm) mà ḷng ḿnh thường rất dễ dăi, khoan dung đối với bản thân, chỉ nghiêm khắc khi đối với người khác. Vậy, đối với người khác cũng dễ dăi tha thứ như đối với bản thân, đấy là thực hiện đúng tinh thần chữ THỨ.

 

Người giữ đạo NHÂN là người thật ḷng và rộng lượng. Kẻ dùng lời nói để lấy ḷng người khác, suy cho cùng là kẻ bất nhân, ít nhiều có manh tâm lợi dụng ǵ đó, ngay từ đầu họ đă tỏ ư khinh thường đối tượng mà họ phỉnh nịnh lấy ḷng.

 

Cả TRUNG lẫn THỨ đều cần đến cái Tâm trong sáng, ngay thật. Người có cái Tâm ấy là người NHÂN.

 

Ngoài đạo luân thường, nho gia c̣n chú trọng tám chữ Hiếu–- Đễ – Trung - Tín -–Lễ - Nghĩa - Liêm - Sỉ.

 

Người Trung Quốc gọi kẻ xấu xa, hư hỏng, vô đạo bằng cái tên ngộ nghĩnh là lăo “Vương Bát” nghe có vẻ sang sang, thân thuộc gần xa ǵ với các tên tuổi lớn như Vương Bột, Vương Hi Chi, Vương Duy, v.v.. nhưng kỳ thực chữ Vương dùng gọi hạng vô đạo là cách vận dụng đồng âm của chữ “Vong” có nghĩa là “mất”, ngụ ư kẻ ấy đánh mất tám chữ quan trọng cho nhân cách đă nêu trên.

 

Các chữ Lễ, Nghĩa, Trung, Tín đă có bàn nhiều ở các phần trên, ở đây chỉ bàn thêm các chữ Hiếu, Đễ, Liêm, Sỉ.

 

Chữ HIẾU () được đánh giá cao nhất v́ nó dọn đường cho chữ Trung về sau.

 

Về cấu tạo nó cũng theo phép hội ư, phần trên là bộ Lăo (), phần dưới là chữ Tử () ngụ ư là trẻ con phải phụng sự người già (ông, bà, cha, mẹ). Nói chung, Hiếu là đạo của kẻ làm con. Kẻ đă bất hiếu khó mà có đức tốt khác. Hiếu đứng đầu mọi đức hạnh (Bách hạnh hiếu vi tiên). Lư Văn Phức (1785-1849) đă diễn ca điều ấy: “Chữ hiếu hạnh vuông tṛn một tiết - Th́ suy ra trăm nết đều nên- Nhị thập tứ hiếu diễn ca”.

 

Khi các môn đệ hỏi về đạo hiếu thảo, Khổng Tử trả lời mỗi người một cách, chủ yếu là tùy hoàn cảnh họ. Kẻ bất cẩn để thân thể ḿnh trầy xướt đau ốm là bất hiếu với cha mẹ giàu sang, kẻ ham làm ăn lo lắng cho vợ con, bỏ quên việc cấp dưỡng cha mẹ nghèo khó hoặc nuôi nấng chiếu lệ, thiếu sự ân cần tôn kính là coi cha mẹ ngang với chó ngựa, bất hiếu kiểu ấy càng tệ hại hơn là không cung kính phụng dưỡng. Nho gia quan niệm kẻ có khả năng kiếm tiền nuôi cha mẹ mà không dùng khả năng ấy để báo hiếu là điều đáng trách. Huỳnh Thúc Kháng đă viết về chí sĩ Trần Quư Cáp, khi nhận chức giáo thụ phủ Ninh Ḥa (Khánh Ḥa):

 

Làm quan v́ mẹ há v́ tiền.

 

Và cụ Huỳnh cũng đă từng tự phê khá thành khẩn:

 

Nợ bầy đeo đuổi mấy năm qua,

Cha bỏ nằm yên một xó nhà.

 

Cụ Huỳnh đă trả nợ cho nước, cho dân, đặt chữ Trung trên chữ Hiếu, đấy là việc một chí sĩ xuất thân khoa bảng như Cụ không có quyền làm khác, mặc dầu từ tâm khảm Cụ luôn luôn ray rứt về tội bất hiếu của ḿnh khi không nhận bổ dụng chức Tuần vũ. Nếu nhận là phản bội chí hướng duy tâm của... nợ bầy.

 

Đặc biệt nho gia coi chuyện không sinh con trai nối dơi tông đường là tội bất hiếu lớn nhất (vô hậu vi đại). Quan niệm này tạo nên kẽ hở khủng khiếp cho tục đa thê, rẻ rúng nữ giới.

 

Ngoài ra, Nho gia c̣n quan niệm trọn đời con cái phải thuộc quyền sở hữu tuyệt đối của cha mẹ, không dám hủy hoại thân thể, tóc da mới là hiếu tột bậc (Thân thể phát phu, thụ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương, hiếu chi chí dă - Mạnh Tử ). Đấy là lư do gây cản trở cho việc phổ biến Vè cắt tóc của phong trào Duy Tân năm 1905 hay khiến nhà chí sĩ Phan Bội Châu đành cố t́nh “giả điếc” khi bác sĩ Trần Đ́nh Nam gởi thư ngỏ kêu gọi cụ Phan hăy tỏ thái độ mỉa mai khinh bỉ phiên ṭa của cường quyền bằng cách tiến hành nghi thức Hara-kiri để thể hiện một kết cuộc hoành tráng mỹ măn cho 20 năm bôn ba trôi nổi v́ nước quên ḿnh.

Quan niệm này từng thể hiện ở đôi câu đối của Binh bộ Thượng thư Tôn Thất Thuyết viếng cuộc tuẫn tiết của Hà Ninh Tổng đốc Hoàng Diệu năm 1882 khi thất thủ thành Hà Nội lần thứ hai:

 

-         Nhất tử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyện.

-         B́nh sinh trung hiếu, đương niên đại cuộc khởi vô tâm.

 

(Thái Trọng Lai dịch: Chết một cách vinh quang là chuyện anh hùng nào mong mỏi? Sống cả đời trung hiếu, gặp cơn quyền biến há từ nan ?)

 

Ngụ ư ở đây là tuy chọn cái chết tiếng tăm như thế nhưng thâm tâm họ Hoàng không coi đấy là có giá trị nhất của nho gia (chưa xứng đáng chí hiếu) nhưng do cả đời sống theo đạo trung hiếu, gặp cảnh ngộ ấy tất không thể không hành động thế ấy.

Chữ ĐỄ () cũng cấu tạo theo phép hội ư, bên trái là bộ Tâm () có nghĩa là ḷng dạ, bên phải là chữ Đệ () có nghĩa là em. Cách cấu tạo ngụ ư khá rơ: phải thật ḷng giữ thân phận em út, không nói năng kẻ cả, át giọng người khác, tức là không quen thói chơi trội, chơi ngông.

 

Sách Luân lư giáo khoa của nhóm Trần Trọng Kim, Đặng Đ́nh Phúc và Đỗ Thận giảng

 

… chữ Đễ nghĩa là nhường

Nhường anh, nhường chị lại nhường người trên.

Ghi ḷng tạc dạ chớ quên,

Con em phải giữ lấy nền con em.

 

Như vậy, chữ Đễ là biến tấu của chữ LỄ.

 

Một thực trạng chua chát là ngày nay HIẾU ĐỄ có vẻ như đang muốn đảo chiều, cha mẹ có vẻ …chăm lo hiếu đễ với con cái ḿnh, nơm nớp cho con ngoan lẫn con hư cha mẹ vâng chiều triệt để, thỏa măn mọi đ̣i hỏi của một vài “bạo chúa” trong gia đ́nh nhưng vẫn dễ bị chúng hờn dơi oán trách, yêu sách, trấn lột. Nhiều cha mẹ cư xử đạo ấy với con cái, toàn tâm toàn ư cung phụng, nhường nhịn con cái tối đa, đặc biệt là trong giới cô chiêu cậu ấm từ những miền quê xa xôi về du học nơi đô thành hoa lệ. Nhà quân phiệt Phùng Ngọc Tường ở Trung Quốc, đồng thời cũng là nhà văn nghiệp dư đă có một truyện ngắn nổi tiếng, kể một chuyện có giá trị hiện thực khá cao về t́nh trạng ấy.

 

(Chuyện kể về một cô gái quê lên đô thành ăn học. Cô hăm hở đua đ̣i thời thượng nghĩ bố mẹ ḿnh đều là những chiếc kho vô tận v́ chưa thấy họ phàn nàn than thở ǵ. Một bạn trai hâm mộ nếp sống thoải mái ấy, theo nàng về quê toan tính chuyện lâu dài.

 

Nhác thấy đôi trai tài gái sắc lộng lẫy xuống xe, một đôi nông dân hom hem, lem luốc mừng rối rít, chân thấp chân cao chạy lên đón. Nỗi nhớ nhung bấy lâu làm mụ mị đầu óc khiến đôi nông dân nọ phạm sai lầm quá lớn, măi lúc này họ mới chợt nhận ra th́ đă vô phương cứu văn. Cả bốn con người sững sờ như trời trồng, trơ mắt nh́n nhau cả lúc lâu. Cô gái nhăn nhó cất giọng cáu gắt:

 

-         Sao bố mẹ phải làm đồng ? Tá điền đâu ?

-         Cần ǵ họ nữa ? Ruộng đất cầm cố cả rồi ! Người đàn bà lí nhí đáp, mắt cụp xuống.

 

Cô gái xẳng giọng hơn:

 

-         Thế sao không cày trâu ? Con Bầu, con Bĩnh, con Vẽ con Vời đâu cả rồi ?

-         Lần lượt bán cả rồi. Riêng con Vời mới bán hồi tháng trước cho con mua sách ǵ đó...

 

Giọng ông bố thật ngậm ngùi.

 

Mua sách ! Cô gái choáng váng thật sự. Thật ra đấy chỉ là chiếc áo dạ hội khá đắt tiền. Măi lúc này cô gái mới sực nhớ chuyện giới thiệu bạn trai. Cô quay lại, chỉ c̣n kịp nh́n theo tấm lưng áo xa dần của...người bạn thân thiết đă trở thành xa cũ).

 

(T.T.L thuật theo trí nhớ không chính xác một bài dịch của tạp chí Nam Phong)

 

Hai chữ Liêm Sỉ thường đi cặp kè trong ngôn ngữ hằng ngày như “vô liêm sỉ”, “bất cố liêm sỉ” nhưng thật ra hai chữ ấy chỉ hai tính cách riêng biệt.

 

LIÊM là cực đối lập với cực Tham. Kẻ liêm là kẻ không tham. Giá liêm là giá rẻ . V́ lẽ đó, từ xa xưa, khi việc chọn người làm quan chưa dùng chuẩn mực khoa cử, triều đ́nh bắt buộc các quan địa phương có bổn phận chọn người có hiếu, người liêm khiết tŕnh lên vua để tuyển dụng. Đấy là một biện pháp pḥng chống tham nhũng ở tầm xa. Khi khoa cử ra đời, kẻ đỗ kỳ thi Hương vẫn c̣n được gọi là đỗ hiếu liêm theo tinh thần b́nh cũ rượu mới hoặc b́nh mới rượu cũ.

 

Sỉ có nghĩa là hổ thẹn. Kẻ làm điều đáng hổ thẹn mà không cảm thấy điều ấy đáng hổ thẹn bị coi là kẻ vô sỉ.

 

Những phẩm chất kể trên là những quy định dành cho nam giới. Nữ giới c̣n có những quy định khác, liên quan đến gia đ́nh nhiều hơn,chịu áp chế nhiều hơn. Đa số trong đám họ chịu đau khổ triền miên, nếm đủ mùi bạo lực tinh thần lẫn thể xác bởi những người bạn đời thường là vũ phu, vô học, coi mọi thứ hư tật xấu của ḿnh là một thứ quyền hành mà vợ con phải biết điều thượng tôn tuyệt đối.

 

Do hoàn cảnh xă hội của thời đại kinh tế lúa nước, vai tṛ phụ nữ ràng buộc với sinh hoạt gia đ́nh nên chỉ cần răm rắp phục tùng cha khi c̣n ở nhà cha mẹ, vâng phục chồng khi xuất giá và sau khi chồng chết phải tôn trọng quyết định của con trai (tại gia ṭng phụ, xuất giá ṭng phu, phu tử ṭng tử).

 

Giáo điều ấy thật sự lỗi thời trong cuộc sống thời đại này, khi xă hội đă công nghiệp hóa, vai tṛ người phụ nữ được giải phóng để tham gia lănh đạo đất nước, có người c̣n có khả năng điều hành hàng vạn nam giới trong việc tham gia phát triển kinh tế, v.v…. Đă có lắm “đấng trượng phu” ngày nay cảm thấy hạnh phúc khi được vợ thu xếp chu đáo cho cuộc sống hàng ngày hoặc cảm thấy tự hào khi được thủ trưởng nữ giới tin cậy, sử dụng.

 

Thuyết tam ṭng đă hoàn toàn phá sản nhưng trong quá khứ, nó giữ ổn định nhiều thế kỷ cho nền văn minh lúa nước và cả văn minh lúa ḿ. Nó tham gia tích cực vào việc bảo vệ và củng cố nền kinh tế cùng hạnh phúc gia đ́nh. Vô số quả phụ ở hương thôn tránh khỏi cạm bẫy của nam giới giàu thủ đoạn, lạm dụng cảnh ngộ góa bụa của họ. Mặc dù vậy, ngày nay không mấy ai coi tam ṭng là bổn phận của nữ giới nữa.

 

Thuyết Tứ đức hiện đang c̣n được tôn trọng, có điều việc thấm nhuần thuyết ấy có phần méo mó.

 

Một số người coi Tứ đức là thuộc tính tất yếu của nữ giới Á đông, bất cứ phần tử nào thuộc phái yếu đều đương nhiên là có tứ đức, Thị Kính, Thị Màu đều có sẵn như nhau khỏi cần đào tạo trau dồi.

 

Một số người lại coi Tứ đức là bảng liệt kê 4 đức ngẫu nhiên, tùy tiện mà không hề quan tâm đến sự khinh trọng nguyên gốc. Họ coi Tứ đức là Công - Dung - Ngôn - Hạnh, như thế là đảo lộn vai tṛ quan trọng của Tứ đức, vốn được sách Liệt nữ truyện xếp theo lũy thừa lùi là 1. Hạnh, 2. Ngôn, 3. Công, 4. Dung. Đức tính đứng trước quan trọng hơn đứng sau. Xếp theo thứ tự này mới phù hợp với câu tục ngữ “cái Nết đánh chết cái Đẹp” của người xưa chứ không phải “cái Đẹp đè bẹp cái Nết” theo thứ tự xếp đặt hài hước của ngày nay.

 

Trong quan hệ hôn nhân, Nho giáo c̣n tạo sức ép cho nữ giới bằng lệ “Thất xuất” (Bảy trường hợp cho phép ly dị vợ, chỉ cần thân nhân đồng ư, bất kể quy định của hương

ước). Bảy trường hợp đó là:

 

1.     Bất hiếu (không vâng kính, phụng dưỡng bề trên).

2.     Vô tử ( không sinh con trai)

3.     Dâm (ngoại t́nh).

4.     Đố (ghen tuông)

5.     Ác tật (bệnh nan y)

6.     Đa ngôn (lắm lời)

7.     Thiết đạo (trộm cắp).

 

Người vợ nào phạm một khuyết điểm trong Thất xuất là họ hàng nhà chồng xử lư ngay, khỏi cần đưa đến các cấp thẩm quyền dù chỉ là cấp làng xă. Cách xếp loại Thất xuất ấy kể cũng khá ngộ, chứng tỏ rằng vợ lắm lời cũng đáng ly dị hơn vợ trộm cắp.

 

Với đàn ông, đạo lư nho gia không hề đặt ra sự chế tài thích đáng nào khi họ hư hỏng, phá hoại gia cang. Cả bảy tội đáng ly dị ở nữ giới, nam giới cũng vi phạm không thiếu tội nào nhưng lại không bị xử lư bằng lệ Thất xuất, mặc dầu nho gia cũng rất đề cao sự công bằng thể hiện ở câu nói của Khổng Tử “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” (Điều mà ḿnh không muốn, chớ đem (điều ấy) làm cho người khác). Sách Luân lư giáo khoa Trần Trọng Kim đă nói rơ:

 

Theo trong Luân lư giáo khoa

Công bằng  là đạo người ta ở đời.

Suy bụng ta ra bụng người

Hễ ta không muốn, hẳn người chẳng ưa.

Những điều làm thiếu, lấy thừa,

Hại  người,  ích  kỷ  nên  chừa  cả  đi.

Công bằng bất cứ điều ǵ,

Ấy là tính tốt nên ghi vào ḷng.

 

(Sđd)

 

Đối với nữ giới, một giáo điều bị thiên hạ chỉ trích nhiều nhất nhưng thực sự lại cần thiết nhất, đó là sự ǵn giữ tiết hạnh. Nho gia quan niệm “Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”. Do tính quan trọng của giáo điều ấy nên luật tục cùng hương ước nhiều miền đă bày ra lắm tập quán hạ nhục nữ giới thật phủ phàng. Trong khi nam giới “năm thê bảy thiếp” th́ nữ giới có “luyến ái ngoài luồng” liền bị “bè chuối trôi sông”, “diều tha quạ mổ”, cách hành hạ đậm mùi thú tính. Đối với nữ giới chẳng may có chồng qua đời, phải ở vậy nuôi con chứ không được bước thêm bước nữa, phải như thế mới là “ṭng nhất nhi chung” (theo một người đến trọn đời). Nếu trong giai đoạn “theo một” ấy không xảy ra sự cố tai tiếng ǵ th́ lúc cao tuổi (măn kinh) có thể được triều đ́nh, quan chức địa phương biểu dương xét duyệt ban cho tấm biển “tiết hạnh khả phong” (tiết hạnh xứng đáng làm gương cho phong tục). Cách xử sự này trái với nhu cầu hạnh phúc của nữ giới, gây nhiều tác hại cho gia đ́nh, xă hội, nhưng chính đấy cũng lại giữ an toàn cho gia đ́nh, xă hội giảm bớt số nạn nhân trẻ người non dạ. Tuy nhiên, nếu việc đi thêm bước nữa của các quả phụ ấy tạo nên chỗ dựa vững chắc cho tinh thần và cuộc sống, đem lại những lợi ích tốt đẹp cho những đứa con mồ côi cha. Quan niệm tiết hạnh tỏ ra vừa có hại lại vừa có lợi đối với hạnh phúc gia đ́nh. Nó là con dao hai lưỡi.

 

Lời hô hào cho đạo công bằng ấy của cuộc sống h́nh như không dành đầy đủ cho nữ giới trong xă hội phong kiến nên mới có cái lệ Thất xuất nghiệt ngă kém nhân tính kể trên.

 

 

PHẦN THỨ SÁU

 

Ư THỨC TU NHÂN TÍCH ĐỨC CỦA NHO HỌC

 

Tam nguyên Nguyễn Khuyến (1875-1910) kết thúc bài thơ Vịnh tiến sĩ giấy của ḿnh bằng hai câu:

 

          Hỏi ai muốn ước cho con cháu,

          Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tu.

 

Ông Tam nguyên khẳng định rằng việc vinh quang danh giá của con người là thành quả của nhiều đời tu nhân tích đức chứ không thể miễn cưỡng thực hiện dễ dàng theo tham vọng suông. Muốn đạt được danh vọng vẻ vang về sau, con người phải sống đúng lương tâm, đạo lư, kiềm chế dục vọng, quên ḿnh giúp đời, v.v.. Ư thức ấy không phải do ông Tam nguyên phát biểu ngẫu nhiên mà là nhắc lại ư kiến của thiên hạ nhiều đời. Đấy là tri thức Hằng tại của nho gia.

 

Trong kho tàng truyện kể Việt Nam có một truyện khá điển h́nh cho thành quả tu nhân tích đức. Đó là truyện Trạng nguyên Giáp Hải (1516-1588) (vị trạng nguyên thứ 20 trong số 55 vị của khoa cử Việt Nam).

 

Mẹ Giáp Hải là cô gái nghèo mưu sinh bằng ngôi hàng nước ở bến đ̣ làng. Một đêm nọ, trời mưa to gió lớn, có người khách lỡ đường lại gặp cảm lạnh ngất xỉu trước quán. Cô chủ quán thương t́nh d́u đỡ vào quán ân cần săn sóc, buộc ḷng cho nằm chung chiếc chơng tre duy nhất. Người khách hồi phục nhanh chóng. Khi chia tay th́ cô chủ quán đă mang thai (có dị bản chép là người khách qua đời). Ít lâu sau cô hàng nước sinh Giáp Hải. Lên hai tuổi ông bị một thuyền buôn qua làng bắt đi biệt tích. Người mẹ đau đớn khôn nguôi, cứ ngỡ con ḿnh không may sảy chân chết đuối.

 

Giáp Hải được người chủ thuyền nuôi cho ăn học thành tài, thi đỗ Trạng nguyên đời Mạc Đăng Doanh. Có người bảo cho ông biết ḿnh không phải là con đẻ nhưng người ấy cũng không nhớ rơ ông ở miền nào.

 

Hơn hai mươi năm sau, nhân một dịp đi kinh lư, Giáp Hải ghé chân chờ đ̣ ở quán nước nọ. Bà chủ quán khóc ̣a khi nhận ra nốt ruồi son ở chân ông. Ông hỏi cặn kẽ mọi chuyện rồi mẹ con nhận nhau trùng phùng đoàn tụ.

 

Câu chuyện kể nọ không rơ chứa bao nhiêu sự thực nhưng gẫm ra khá thâm thúy:

 

Chính lần “tu nhân” của người mẹ đơn thân ngày ấy đă tạo nên cậu bé khôi ngô Giáp Hải rồi vẻ khôi ngô ấy xui Giáp Hải bị bắt cóc năm hai tuổi khiến cậu ta có cơ hội được ăn học thành tài (điều cô hàng nước không thực hiện nổi) nhưng người chủ thuyền có công lao tích đức nọ lại không được hưởng trọn vốn đầu tư v́ sau khi nhận mẹ, Giáp Hải được phong tặng đến cực phẩm (chức Đông Các đại học sĩ) tước vị tột bậc (Đệ quốc công) lại sống đến tuổi 72, được coi là đạt danh nghĩa tam đa (Phúc-Lộc-Thọ).

 

Trong cuộc sống, không ít người cho ḷng tin vào hiệu quả tu nhân tích đức là khờ khạo vô căn cứ nhưng lại cũng có người từng trải chiêm nghiệm và xác nhận hiệu quả ấy như ông Tam nguyên nọ khẳng định theo những người đi trước ông hàng ngh́n năm. Đấy là niềm tin rất có giá trị nhân văn của nho học trong khi nhiều đức tin khác quen xúi giục tín đồ đ̣i hỏi, nài nỉ, thậm chí đ̣i hỏi quá đáng mang dấu hiệu trấn lột. Điều đáng đánh giá cao là ư thức tu nhân tích đức buộc những phần tử biết tự lượng ḿnh kém đức, không đủ vốn ấy để “đầu tư” tất không tính chuyện lăm le. Có lẽ chẳng một tên lâu la đầu mục cướp của giết người nào lại tính chuyện đầu tư cho con cháu ḿnh thi đỗ ông nghè ông cống, nhờ vậy mà hàng ngũ quan lại thêm phần trong sạch, lương thiện hơn.

 

 

PHẦN THỨ BẢY

 

SỰ HẰNG TẠI CỦA Ư THỨC NHO HỌC

 

Tất cả những ǵ Nho gia đề cập qua chữ H̉A và chữ NHÂN đă tồn tại trong xă hội loài người ngót 25 thế kỷ nay và trải bao thử thách. Dù ư thức Nho gia đă nhẫn tâm bỏ rơi nữ giới nhưng những ǵ họ dành riêng cho nam giới cũng có thể áp dụng cho nữ giới khi cần. Trong ngôn ngữ, người ta vẫn dùng những từ nữ trượng phu, nữ hào kiệt, nữ anh hùng ngụ ư phân biệt giới tính chứ không phân biệt phẩm chất. Chế độ dân chủ ngày nay chủ trương nam nữ b́nh đẳng, b́nh quyền, nam giới nếu vi phạm các khuyết điểm đă cảnh báo tất bị chế tài đích đáng ngay v́ nữ giới có mặt khắp mọi cương vị mà chế độ phong kiến ngày xưa chỉ ưu biệt cho nam giới.

 

Người ta không thể phủ nhận sự HẰNG TẠI của chữ H̉A, chữ NHÂN. Gia đ́nh, xă hội, quốc gia đều chịu sự chi phối chặt chẽ của nó, nhà ngoại giao đă xua nhà sử học để có thể quên đi mọi xích mích trong quá khứ, giúp nhau hướng tới phát triển tương lai. Người ta kêu gọi nhau kiềm chế để bảo vệ chữ H̉A, quên đi những hiềm khích trong quá khứ, hô hào đóng góp cứu trợ nhau để thể hiện chữ NHÂN dù trong lúc thực hiện những điều tốt đẹp ấy, họ gặp nhiều cản trở hủy hoại bởi phía bất nhân hiếu chiến. Những đoàn xe Hồng thập tự đi cứu tế những nạn nhân chiến cuộc, thiên tai cũng đă từng gặp phải không ít thiệt hại nhân mạng oan uổng.

 

Trong phạm vi gia đ́nh, làng xóm, dẫu xảy ra bất ḥa tệ hại đến mấy, xô xát nẩy lửa đến mấy th́ cuối cùng người ta cũng phải bắt buộc ḿnh quay về chữ H̉A, chữ NHÂN. Đó là cách giải tỏa trầm cảm t́m lại sự nhẹ nhơm cho cuộc sống. Lịch sử nhân loại đă không ít lần thừa nhận qui luật Hằng tại của Ḥa, của Nhân ấy ở mọi nơi, mọi thời.

 

Tuy nhiên, điều quan trọng ở đây là sự Hằng tại của những hành vi Bất Ḥa, Bất Nhân đă xảy ra trong quá khứ của cá nhân. Tất cả đều được xử lư thích đáng mà Phật giáo gọi là nghiệp báo và nho giáo gọi là báo ứng.

 

Sự “báo” ấy âm ỉ, âm thầm khiến hầu hết những kẻ bị báo ứng (chỉ sống trong dương gian) nên đều không hề nhận ra t́nh h́nh ấy do quá chủ quan, nhất là do không tin vào luật Hằng tại, cứ tưởng việc làm của ḿnh trót lọt, trời không biết, đất không hay, người càng mù tịt. Họ hành xử như con đà điểu, phát hiện thú dữ là rúc đầu xuống cát để tin rằng thú dữ không có. Người Trung Quốc có một nhận thức chí lư: “muốn không ai biết th́ cách đúng nhất là không làm”.

 

Không ít người đang cuốn vào ṿng xoáy báo ứng nghiệt ngă lại hồn nhiên tiếp tục làm thêm điều ác nhiều hơn để chồng chất thêm vào cuộc báo ứng mà không tự hay biết để dè chừng. Họ cảm thấy ḿnh vô tội một cách hồn nhiên và tin tưởng mănh liệt rằng người chung quanh họ cũng cảm thấy như họ. Ta có thể quan sát một trường hợp điển h́nh: thời Lê - Trịnh một nhân vật kiệt xuất nọ bị dư luận miệt thị là kẻ “giết 3 cha” để được thăng tiến. Nhân vật này từ quan về quê sống trong chuỗi ngày ăn năn. Chẳng bao lâu ông ra cộng tác với nhà Tây Sơn trong nhiệm vụ được tin cậy tuyệt đối, nhận nhiều ưu đăi trọng dụng, nhà Tây Sơn bước vào vận suy, ông lại từ quan về Thăng Long lập chùa riêng ở phố Bích Câu có lẽ để tiếp tục cuộc sám hối và đạt đến hàng Ḥa thượng nhưng đến cuối đời lại mất mạng do bị phạt trượng đời Gia Long. Đấy là điều đă được cảnh báo “Thiện ác rốt cuộc đều có báo ứng/Cao bay xa chạy cũng khó nấp” (Thiện ác đáo đầu chung hữu báo/Cao phi viễn tẩu giả nan tàng-– Minh Tâm Bảo Giám)

 

Phối kiểm các sự kiện ông ấy gây ra cũng như ông ấy chịu đựng, ta thấy rơ các tội bị dư luận lên án ở ông là “giết 3 cha” thế nhưng ông không hề bị “dương pháp” chế tài, thậm chí c̣n thăng tiến, v́ đặc tính của “dương pháp” là “tuy gần nhưng có thể trốn tránh”, tuy ông đă sớm nghĩ ra cách sám hối, đi tu để giũ sạch nợ đời nhưng “âm pháp” vẫn không để lọt tội, vẫn dun rủi cho ông sa vào cây gậy của “dương pháp” thời Gia Long. Người đọc sử lơ đăng hoặc bảo thủ đến đâu cũng dễ dàng nhận ra t́nh h́nh “cao phi viễn tẩu giả nan tàng” ấy.

 

Những điều thiện ác mỗi cá nhân gây ra đều chịu luật Hằng tại không khác ǵ sự hằng tại của “kho sao chổi” mà giới thiên văn học đă khám phá từ lâu. Những hành vi thiện ác ấy có thể phát tán, báo ứng nhăn tiền hay trễ năi vài ba thế hệ. Giáo lư của Nho gia và Phật gia đều nghiệm đúng. Dân gian tích lũy khá nhiều kinh nghiệm như thế, người nào cũng có dịp quan sát trực tiếp hay gián tiếp một vài trường hợp ḿnh đích thân chứng kiến trong đời nhưng khó thể nói ra v́ ngại hao ṃn chữ Ḥa, và cũng do người ta chưa thể bay vào quá khứ với vận tốc lớn hơn ánh sáng để truy cứu, t́m bằng chứng cụ thể. Điều đáng nói là loạt thông tin này thường bị “gây nhiễu” tối đa, rất khó tiếp cận, rất khó lọc ra sự thật tiềm ẩn.

 

Ngày nay, nghệ thuật thứ bảy đă nhiều lần công nhận luật Hằng tại. Bộ phim Luật đời của điện ảnh Việt Nam gần đây đă thuyết minh khá xuất sắc:

 

Một anh bộ đội nhẹ dạ nọ bị dư luận độc ác mê hoặc đến nỗi lạnh lùng ruồng rẫy oan uổng người vợ tao khang, rốt cuộc bị báo ứng suốt ba đời. Cả ba đời nhận báo ứng, chẳng một ai nhận ra ḿnh, bị luật Hằng tại lung lạc, dun rủi họ mà lại tiếp tục gây thêm tội lỗi nghiêm trọng hơn, chịu báo ứng nặng nề hơn. Chỉ có khán giả xem phim nhận ra sự báo ứng triệt để ấy.

 

★ ★

 

Tóm lại, luật HẰNG TẠI vẫn đang sống chung cùng vũ trụ nhờ sự vô minh của chúng sinh đă nuôi dưỡng nó. H́nh dung một cách cụ thể, việc đối phó với dương pháp coi như đối phó với một kẻ nặng 70kg trong lúc phía bóng tối sau lưng ḿnh là hồ sơ Hằng tại do âm pháp nắm giữ bởi một kẻ khổng lồ nặng 70x95/5=1.330 kg ! Cách h́nh dung này hoàn toàn phù hợp với việc nghiên cứu của các nhà vũ trụ học ngày nay chứ không phải do tưởng tượng ngẫu hứng.

 

 

 

Giáo Sư Ngô Văn Lại  吳文赖老师

Việt Nam, Tháng 12/2012

 

 

 

 

 

TẢN MẠN VỚI TỊ MỊ

 

Chắc có người thắc mắc:

 

-         Bất uẩn chân nhân nghĩa là ǵ ?

 

Xin trả lời vắn tắt:

 

-         Bất uẩn chân nhân có thể hiểu gọn là … Phó quân tử thứ thiệt.

 

Tiêu chuẩn đạt chất lượng quân tử được Khổng Tử đề ra hơi cao, đ̣i hỏi quá nhiều mặt, ngay bản thân Khổng Tử cũng… chưa chắc đạt đủ.

 

Chẳng hạn khi làm quan ở nước Lỗ (giữ một chức vụ tương đương chức Bộ trưởng thời dân chủ) trong một lần cử hành lễ tế Lao, khi biếu thịt cúng, tể phu quên phần biếu cho Khổng Tử. Một người luôn hô hào giữ Lễ, cần cù biên soạn Kinh Lễ lại bị đối xử vô lễ đến thế th́ quả là bị sốc, Khổng Tử bất măn bỏ nước ra đi. Khắp sáu nước ông đến, vua nước nào cũng đăi ngộ ông như bậc thầy nhưng lại ngại, không mời Khổng Tử giữ chức ǵ, Khổng Tử trở về nước Lỗ, chỉnh đốn các sách giá trị của đời trước và biên soạn sách mới, h́nh thành hệ thống giáo lư Nho học, mở trường dạy học tṛ, tạo nên một nền Đạo Đức học xuất sắc, lâu bền nhất, phổ biến rộng răi nhất (giả sử cứ mỗi năm có thêm ít nhất là 1.000 người tiêm nhiễm với Nho học th́ gần hai ngh́n rưỡi năm con số đạt gần hai tỉ rưỡi người !). Thế cho nên hậu thế suy tôn ông là “Vạn thế sư biểu” là hoàn toàn thỏa đáng.

 

Sự sơ suất của viên tể phu chia thịt ở lễ tế Lao xa xưa của nước Lỗ ai dè lại tạo ra cho nhân loại một vị thánh nhân và một học thuyết bền vững, khiến nhiều tôn giáo, nhiều thế lực chính trị đă biến tấu, tân trang để tận dụng nhan nhản trong thế giới hiện tại đến thế.

 

Tuy nhiên, việc giận của Khổng Tử có vẻ… chưa quân tử lắm bởi v́ “người quân tử th́ phải ăn không cầu no, ở không cầu yên, nhanh nhẹn khi làm việc mà thận trọng khi nói năng…” (quân tử thực vô cầu băo, cư vô cầu an, mẫn ư sự nhi thận ư ngôn…) cùng vô số quy định chặt chẽ khác ở những lĩnh vực khác. Nếu Khổng Tử tự phê b́nh chắc ông cũng phải nhận khuyết điểm như thế chứ không quanh co xuê xoa hay lẳng lặng rời xứ sở chu du sáu nước.

 

C̣n Bất uẩn có nghĩa là ǵ ?

 

Bất uẩn là “không giận ngầm, không uất ức”, dùng theo câu nói của Khổng Tử ở sách Luận Ngữ: Nhân bất tri nhi bất uẩn, bất diệc quân tử hồ ?” (Người ta không “biết” mà không uất giận ngầm đấy chẳng phải cũng là quân tử hay sao ?)

 

Chữ TRI tạm để trong ngoặc kép để nhấn mạnh ư nghĩa:

 

Thời xưa, người nổi tiếng có hiếu, có liêm mà quan địa phương không “biết” để tiến cử lên vua, để có dịp trổ tài giúp dân, giúp nước hoặc đến thời thi cử người có tài nhưng khảo quan nhận không đúng tài, không “biết” lấy đỗ, đấy là những người bị… “Nhân bất tri”. Nếu người đó căm tức, sinh ra thất chí, cuồng chữ, cay cú với người này người khác như Tú Xương th́ “chả” quân tử tí nào ! Phải là Bất Uẩn thĩ “cũng” đáng coi là quân tử.

 

Chữ “cũng” trong Việt ngữ hàm nghĩa … “gần bằng” chứ không phải là “bằng nhau” thực thụ nên tạm gọi là … Phó quân tử vậy.

 

 

2015

Bất Uẩn chân nhân

 

 

 

 

 

 

 

 

*** 投稿電子郵件請寄 ***

Bài vở, h́nh ảnh xin gởi về Ban Phụ Trách KHAIMINH.ORG

 

VanNgheGiaiTri@KhaiMinh.org

 

 

 

 

 

啓明网站 | Copyright © 2004 - Present KHAIMINH.ORG | Website Disclaimer