- Cú đá thứ nhất:
Tù binh L. (tôi đấy ạ!) đá Tây Cọt
"sếp đờ câng" (Trại trưởng)
trại tù binh Ðà Nẵng, diễn ra vào tháng 6, 1952.
- Cú đá thứ hai:
Tây Cọt "sếp đờ câng" đá tù
binh L. lúc 22 giờ ngày 14-7-1952 (người xưa dạy
"Làm ơn chớ nên nhớ, chịu ơn chớ
nên quên". Tôi "chịu
ơn" cú đá ấy của Tây Cọt và thật
lòng nhớ ơn lão, thành thử nhớ kỹ cả
ngày lẫn giờ như vậy!)
Ðể khỏi gây hiểu nhầm, tôi thấy
trước khi đi sâu vào chuyện, cần phải
phân giải đôi lời cái đã.
Xét về mặt "chính danh" thì tù binh có nghĩa
là lính địch bị bắt sống. Với nghĩa ấy thì kẻ
đang dạy trẻ như tôi không thể là tù binh, và
như vậy, quân đội Liên Hiệp Pháp tống
tôi vào trại tù binh là vi phạm công pháp quốc tế.
Tôi mà theo kiện ráo riết, họ phải bồi
thường thiệt hại là cái chắc!
Tuy nhiên, khi mà khắp
nước đều nêu cao khẩu hiệu "Toàn
dân kháng chiến", "Mỗi người dân là một
người lính", mà cái thân tôi thì "dân" quá rõ,
vậy mấy tên da đen rạch mặt tóm cổ tôi
ném vào trại tù binh là tóm đúng đối tượng,
có lý có lẽ hẳn hoi, dẫu tôi có giở mồm
năm miệng mười ra cãi chày cãi cối đến
mấy cũng chẳng ăn thua, nói chi đến kiện
cáo!
Vậy thì tôi là tù binh "chính thức" của
quân đội Pháp, bị nhốt tại "Pờri
- dông mi.li.te" (viết tắt PM) tức trại tù
binh. Trại nầy ở Ðà Nẵng được dân
gian gọi bằng cái tên hơi thô là Nhà - Lao - Con - Gà
(nguyên dùng lại chỗ trại cũ của lính Pháp
thời đô hộ vốn có bức biểu tượng
con gà trống Gô loa đứng chót vót trên đầu một
cột thép) còn phe kháng chiến thì dành cho nó một cái
tên mỹ miều, sang trọng có thừa: Trại - tù - chính - trị -
Lao - Con - Gà (gọi tắt là Lao - Con - Gà).
Trại gồm ngót chục ngôi nhà lớn nhỏ,
mỗi ngôi nhà lớn (5m x 9m) đã vài chục tuổi ấy
xưa kia được dành làm nơi sinh hoạt cho một
tiểu đội lính Tây thì nay dùng nhốt trên hai
trăm tù, chen chúc thành ba lớp:
- Tù cũ: sạp
dưới.
- Tù hơi cũ nhưng không còn mới: sạp trên.
- Tù mới: gầm
sạp.
Sự phân loại bất thành văn này mặc
nhiên tự phân hủy khi đổi phòng. Lúc ấy ba lớp sẽ
là: Chạy nhanh - Hơi
nhanh - Kém nhanh. Sau đó, trật
tự trên đổi dần lại khi có thêm tù mới
hay người ta loại bớt tù cũ do trao đổi
hoặc... sa thải.Tù ở Lao Con Gà có ba mối sợ
chính:
1. Ði trận: Thỉnh
thoảng xe tải quân sự đến "bốc"
một số đi trận.
Họ được phát áo lính thải ra (khi
đổi cái mới) lưng áo có bệt hai chữ PM
tổ bố bằng sơn đỏ choét, nét bự gần
ba ngón tay đủ cho những cặp mắt không cận
thị nhìn rõ ở khoảng cách cỡ một tầm
ném lựu đạn. Công
việc được giao là mang máy truyền tin, khuân
vác đạn dược, đồ hộp cho
lính. Ngoài việc nặng
nhọc họ còn phải chạy cho nhanh khi thừa thắng
và chạy thục mạng khi vỡ trận. Không hiếm trường hợp
có đi không về tuy họ không ham làm tráng sĩ, chẳng
biết gì câu hát của Kinh Kha "Tráng sĩ nhất
khứ hề... bất phục hoàn..."
2. Ði kho đạn:
Kho đạn ở Ðà Nẵng bấy giờ do
lính Miên (Campuchia) canh giữ và điều hành việc bốc
vác, vận chuyển. Bọn
ấy hung tợn một cách xuất sắc. Có nhiều tên non choẹt tuổi chưa đến
đôi mươi nhưng đã rất sẵn sàng nhảy
xổ vào móc miệng, móc mắt, giật tóc tù bất
chấp lý do. Nghe nói có
đứa còn luyện cả "gồng trà kha",
cơ bắp cứng như thép nguội, quại vào
thân tù chỗ nào là chỗ ấy thâm tím thành cục. Hình như các người tù bạc
phước ấy phải hứng chịu đòn thù
mà tiền nhân họ gây ra từ trăm năm trước,
khi Việt Nam
đô hộ Chân Lạp (tên cũ nước họ) bắt
cả quận chúa Ang Mey của họ về "an
trí". Sử sách xứ
họ không quên, và học sinh xứ ấy thấm nhuần
mối căm thù ngay từ bậc Tiểu học.
Mỗi thùng đạn nặng khoảng 80kg, vác
đã nhọc, xơi thêm đòn thù còn nhọc hơn, sức
khỏe con dân nhà lao xuống nhanh theo cấp số
nhân. Không chiều nào là không có người phải dìu
đi trạm xá cứu chữa. Do đó việc "Ði kho
đạn" thường dành cho những tù nhân cứng
đầu, hay gây sự với bạn đồng cảnh
như đánh lộn, ăn cắp vặt, vv..
3. Làm vệ sinh doanh trại lính lê dương gốc
Ả Rập. Bọn
nầy không bao giờ hành hạ tù mà còn ngược lại. Ai khéo chiều có khi còn
được chúng biếu quà trị giá gấp ba tiền
công người lao động phổ thông. Một số tên của sắc
lính
ấy có sở thích thật bệnh hoạn: chúng thọc tay vào trong quần
tù nhân rồi khua khoắng, mát xa(!) Khi rút tay ra, chúng hít hít ngửi
ngửi rồi quẹt lên mặt tù. Tù nhân nào lớ ngớ thấy
phòng bỏ trống, cửa mở hoác, xách xô nước,
giẻ lau vào chưa kịp triển khai việc lau nền
thì ba bốn tên ở đâu xồ ra, khóa tay bịt miệng,
xô sấp xuống sàn rồi hãm hiếp tập thể
(xin hiểu là luân phiên). Chốc
chốc lại có kẻ đồng mưu gõ cửa cồm
cộp, nài nỉ đòi vào tham gia...
Ðể đối phó các hiểm họa ấy,
tôi quyết định giả ốm: Tôi chọn cho mình bệnh kiết
lỵ.
Bệnh kiết lỵ nghe có lý nhất vì bếp
núc trại giam chỉ có chút đỉnh vệ sinh khi
có tổ chức Hồng Thập Tự quốc tế
đến kiểm tra. Bệnh
ấy lại quá danh giá vì lịch sử đã từng
ghi chép có cả lãnh tụ khởi nghĩa chống Pháp
Phan Ðình Phùng đã "tự chọn" nó làm bệnh
kinh niên cho mình kia mà!
Ðến trạm y tế của trại, tù nhân chỉ
cần phát biểu cộc lốc hai tiếng "kiết
lỵ!" tức thì nhân viên người Việt ở
đấy viết thành tiếng Pháp vào sổ theo dõi rồi
cấp ngay tấm phiếu in ronéo, ghi vào đấy họ
tên người ốm, kèm theo câu tiếng Pháp có nghĩa
là: "Ðến uống thuốc
7 ngày". Lão thầy thuốc
Pháp cứ thấy phiếu là ký đại như máy tự
động, thỉnh thoảng mới đọc
lướt chút ít chiếu lệ. Giá ai bạo gan viết lời
nguyền rủa quân đội Liên Hiệp Pháp bấy
giờ, tuồn vào xấp phiếu, chắc lão ta cũng
ký ngon lành nhanh nhẩu luôn.
Vậy là tôi đã có được tấm
"bùa linh" để giải trừ ba mối sợ
kể trên.
Tôi chỉ xin bùa chứ không uống thuốc. Cứ nhè vào một trong hai
ngày đầu mỗi tháng, tôi xin cho bằng được
một tấm phiếu "Ðến uống thuốc..."
như thế về lận lưng, khi gặp việc
bức bách mới đem ra sử dụng (giống với
mấy ông
tướng hữu dũng vô mưu chuyên xài cẩm
nang của quân sư!) Với
phiếu ấy, tôi có thể tự ý dời ngày đến
12 lần, mất cơ hội ấy tôi chỉ có thể
dời được vài ba lần thôi (ví dụ ngày 6,
tôi chỉ được chữa ra 16, 26 thôi). Nếu bị xua đi trận
chẳng hạn, nhằm ngày 21, trong lưng có sẵn
tấm "bùa" đề ngày 1 tôi chỉ cần chữa
ngày ghi ở phiếu là 19, ra đến mặt trận
mới trình phiếu, nhất định là chỉ phải
giữ công việc sai vặt, khỏi mang vác nặng nề. Thật tình thì tôi chưa phải
giở trò ấy vì chưa lần nào bị lôi cổ
đi trận cả.
Mỗi khi mang sổ đến trạm xá xin phiếu,
người làm tôi ngại nhất là ông ghi sổ, phát
phiếu. Ông quá nhẵn mặt
tôi nên lắm hôm ông mỉm cười, đắc ý
nhìn tôi như muốn bảo "Tao biết tỏng mẹo
vặt của chú mày rồi nhé!" Tôi cũng thành thật mỉm
cười đáp lễ, không giở trò giả bộ
thở gấp, nhăn nhó, rên rỉ như trước. Lần sau rồi lần sau nữa,
ông vẫn tái sử dụng nụ cười thân thiện
ấy. Tôi đã có đồng
lõa. Thì ra phần thuốc
tôi không đến uống, ông đã kín đáo "uống"
hộ và cũng kiếm được món lộc khá
khá.
Thế nhưng bệnh kiết lỵ có một
"nhược điểm" rất đáng chê
trách là bệnh nhân chỉ được phát có nửa
suất cháo, thật bất tiện cho kẻ giả ốm,
nhất là rất dễ bị phát hiện việc dời
ngày nếu người ta đối chiếu cẩn
thận phiếu phát thuốc với sổ theo dõi, tức
là so ngày tôi chữa lại trên phiếu với ngày bệnh
xá ghi trong sổ.
Bệnh thứ hai tạo hiệu quả cao cho
việc né tạp dịch là bệnh tê bại. Thực phẩm trại giam vốn
thiếu vitamin B1 nghiêm trọng nên loại bệnh nầy
rất dễ xuất hiện.
Thế là ý tôi đã quyết.
tiếp (1)
Một hôm, Tây Cọt chẳng biết động
địa mắc mớ gì lại vào kiểm tra sổ
theo dõi sức khỏe phòng E. Xét thấy tôi mới
vào trại vài tháng đã cấp tốc mắc phải
thứ bệnh ngay cả lắm tù thâm niên gấp ba cũng
khó mắc, lão bèn gọi đích danh cái kẻ đang thấp
thỏm nhất phòng ra cho lão... khám. Kẻ ấy
chính là tôi.
Thật ra, "Cọt" vốn không phải là tên
cúng cơm của lão Tây ấy. Gọi như thế
chẳng qua là lão quê ở đảo Cọt (Corse)
đại khái như dân ta quen gọi cụ Yên Ðổ,
nghe vui tai hơn cái tên Nguyễn Khuyến vậy thôi.
Ðảo Cọt là quê hương của Nã Phá Luân Ðệ
nhất (Napoléon I) nên dân Cọt thường có vẻ
kiêu kiêu, tự cho mình ngon lành hơn dân xứ khác.
Lão nầy cũng vậy, vẻ mặt lúc nào cũng lạnh
lẽo như... gió mùa đông bắc!.
Trại tù binh Ðà Nẵng nhốt hơn 1800 người
nhưng viên Trung Sĩ I Tây Cọt quản lý ngon ơ,
nhiều năm trời không xảy ra lộn xộn gì
tuy cơ sở hạ tầng vỏn vẹn chỉ có
bốn hố xí, một phòng tắm tập thể
trang bị chừng mươi chiếc vòi, ai có buồng
phổi lực sĩ, phồng má trợn mắt cũng
chỉ giúp cho vòi rỉ nổi lưng lửng một
ca, rửa mặt cũng còn chưa chắc đã đủ.
Nói đến chuyện phòng tắm, thật là cả một
sự mỉa mai, hài hước khó cười.
Tây Cọt gọi xong tên tôi. Tôi "prề -
dân" (có mặt!) một phát rồi vịn vào mép sạp,
nhọc nhằn kéo lê bộ mông vô giá trị của
mình lết dọc theo thanh tre đầu sạp tới
trước mặt lão. Lão lom lom đôi mắt nâu
nhìn tôi như mèo vờn chuột. Tôi cố vận
dụng toàn bộ sự dịu dàng, nhìn lại lão, ra
cái điều "cây ngay đếch sợ chết
đứng"!
Lão vỗ vỗ mặt sạp ra hiệu cho tôi nhích lại
gần hơn. Cử chỉ của lão khá giống một
anh bồi bàn lau ghế thật kỹ lưỡng rồi
ra hiệu cho "quý khách" là đã có thể ngồi
được.
Tôi hình dung vấn đề theo hướng hỗn
xược như thế cốt để củng cố
sự bình tĩnh của mình đang chớm muốn
lung lay điên đảo.
Tây Cọt ngồi xổm trên nền xi măng, từ
từ tháo chiếc lon trung sĩ bên tay áo, nắn cho chiếc
ghim nhọn xuôi thẳng ra rồi cầm nó xăm lên
hai bên bắp chân tôi. Lão châm khá lộn xộn, mũi
sâu mũi cạn chả theo nhịp độ nào cả,
mắt lão chăm chú quan sát sắc diện tôi có đáp
ứng theo tính chất từng mũi châm hay không.
Tôi vẫn cố thản nhiên chịu đựng mớ
nhói đau, mặt không đổi sắc, thoải mái
nhìn lão chơi cái trò chẳng giống ai ấy. Lạ
một điều là không thấy máu rỉ ra. Tôi
đồ chừng máu tôi không đạt đủ sản
lượng nên mũi kim quá nhỏ ấy chỉ đủ
sức trở lối cho nó vừa rỉ ra chưa xong
đã vội vàng bít lại ngay.
Cứ tưởng lão chỉ ra tay đến thế
là cùng và tài lì lợm của tôi kể như đã thành
công mỹ mãn khi thấy lão gập mũi ghim nọ
như trước, đeo chiếc lon trung sĩ lại
chỗ cánh tay áo như cũ. Ai ngờ lão nhẹ
nhàng rút ở túi quần sau ra một vật, nhắc
thấy nó tôi đã kêu thầm: "Phen này rồi
đời mất ta ơi!"
Cái vật lão cầm trông giống một chiếc
đinh phóng đại, mũ có đường kính chừng
4cm, mũ đinh không nhọn. Lão ranh mãnh quan sát mặt
tôi, hình như thử đoán xem tôi có biết công dụng
của vật nọ hay không.
Thấy tôi không biểu lộ được chút dấu
hiệu gì, lão bèn cầm cái vật hắc ám ấy gõ
gõ phía cạnh mũ đinh vào chỗ gặp nhau giữa
khớp xương bánh chè với ống chân của
tôi. Mới đầu lão ta gõ vài ba cái chỉ làm
tôi thấy hơi đau đau nhưng tôi vẫn còn thừa
sức chịu đựng để lão gõ mệt nghỉ.
(Phải mất nhiều năm sau tôi mới suy ra rằng
lão cố tình gõ chệch như thế cốt để
đánh lạc hướng, ru ngủ sự cảnh
giác của tôi. Ở tư thế ngồi mép sạp,
thõng cả hai chân như tôi, nếu muốn, tôi chỉ
lắc gối tí tẹo một cách ngẫu nhiên vô tình
cũng thừa sức vô hiệu hóa đích gõ của
lão.) Bất thình lình, lão "mổ" một phát
cật lực thật chuẩn vào chỗ khớp nọ,
khiến chân tôi không kịp thông báo tín hiệu lên óc, chỉ
vâng theo một xung lực ma quái nào đó, bật mạnh
thẳng đà, đá trúng chóc vào chiếc cằm lún
phún bộ râu mới mọc lại của Tây Cọt.
Lão đề phòng tôi cảnh giác, té ra chính lão mới là
kẻ thiếu cảnh giác nghiêm trọng! Sau cú gõ
tàn bạo phảng phất mùi du côn ấy, "chiếc
đinh" bật văng lên mặt sạp. Ðang
thế ngồi xổm, mông lão giáng phịch xuống nền
xi măng chổng đủ hai vó, hai tay lão dang ra theo
tác động của bản năng rồi chống
hú họa về phía sau. Bộ lông ngực đen
nhánh, xoăn tít của lão chẳng rõ làm cách nào hất
văng cúc áo chui ra, đầy vẻ ngơ ngác.
Cả phòng im phắc. Trưởng phòng, phó phòng,
thư ký đứng chầu chung quanh đều chôn
chân trố mắt, kẻ nhìn lão, kẻ nhìn tôi, kẻ
nhìn kiêm nhiệm cả lão lẫn tôi. Tôi nín thở
chờ đợi cơn thịnh nộ của lão sẽ
nổ ra kèm theo hàng loạt tiếng chửi thề thô
lỗ mà lính Pháp quen dùng trong trường hợp
tương tự. Không khí trong phòng như đặc
quánh lại. Có lẽ chưa một ai từng thấy
cảnh ấy, ngay chính cả lão nữa không chừng.
Tôi thu hết can đảm, lắp bắp:
- Xin lỗi sếp! Không phải tôi!
Tôi định nói: "Tôi không cố ý",
nhưng vốn tiếng Pháp nghèo nàn của tôi khó trang
trải nổi, tôi đành nói đại như thế,
nghe có hơi ngốc nghếch nhưng về sau xét lại,
cách nói "chữa cháy" ấy hóa ra lại hay
hơn hẳn mới kỳ!
Tây Cọt khó nhọc đứng lên. Mặt
tôi cụp xuống đầy sợ hãi. "Chí ít
mình cũng hứng trọn ba bốn cái bợp tai kiểu
Pháp hay kiểu Cọt"! Tôi thầm nghĩ thế
và gồng mình sẵn sàng hứng chịu tất cả
cho tròn trách nhiệm với số phận.
Lão nhếch mép cười vô nghĩa, vươn tay bốc
"cái đinh" lúc nãy rồi lẳng lặng quay ra
đi thẳng.
Có lẽ Tây Cọt về tận văn phòng từ lâu,
mọi người trong phòng mới buông vài tiếng
cười nghe nguội ngắt. Ðúng cái lúc đáng
cười một cách vô tư thì ai nấy đều
cố nín thin thít. Chẳng qua thường ngày tính
lão Cọt rất lạnh lùng, nguyên tắc rất mực.
(Ðã có lần một người tù mò xuống nhà bếp
vét được mảng cơm cháy, hí hửng nhóp
nhép trên đường về phòng, vô phúc đụng
đầu lão chỗ khúc quanh. Lão không nói không
rằng mở ngay cửa xà lim cạnh đấy, tống
anh ta vào nhốt luôn mười ngày, không cho phát cơm
nước. Anh ta thoát chết nhờ có bạn tù
tiếp tế lén qua lỗ tò vò).
Một hung thần như thế mà gặp phải tên
tù xấc láo dám đá phải cằm, thế mà lão chỉ
lặng lẽ bỏ đi, khiến mọi người
trong phòng không sao tin nổi những gì họ thấy.
Chắc Tây Cọt thừa biết là tôi có to gan lớn
mật như Triệu Vân, Khương Duy nước
Thục cũng chẳng đời nào dám mơ đến
chuyện "đá" lão. Cú đá ngẫu nhiên ấy
chẳng qua là kết quả việc kiểm tra quá kỹ
của lão mà thôi.
Lão nghĩ đúng như tôi suy đoán thì thật là
chính nhân quân tử, khó thể có kẻ thứ hai!
Cọt ơi là Cọt! Lão trung hậu, trong sáng,
đáng phục biết bao!
Nếu lão tương kế tựu kế, cứ kết
luận đại rằng tôi bị bại liệt, rồi
cho người theo dõi lật tẩy thì quá dễ và rất
đáng đời cho tôi! Lẽ nào tôi phải lết
suốt ngày? Và lẽ nào tôi không có sơ sẩy co
chân đạp mạnh vào mấy cái mông đêm nào cũng
nằm lấn chỗ? Tôi chỉ đủ trình
độ để diễn vở kịch một màn
rồi... màn từ từ hạ chứ đâu muốn
diễn kịch ma ra tông kiểu ấy để tránh thoát
sự theo dõi dai dẳng? Té ra cú đá tội nợ
ấy cứu tôi tận tình! Hú vía!
Bình tình mà nói, bảo rằng cái hất hú họa
như thế là cú đá thì quả là "cưỡng
bách chữ nghĩa" một cách thô bạo, phi pháp,
nhưng trước mắt người ngoài cuộc
chưa mấy ai hiểu gì về hành vi phản xạ
thì nó chính xác là một cú đá và tạm gọi là cú
đá thứ nhất của chuyện này.
(Ðề nghị đừng ai thắc mắc đến
đầu đến đũa làm gì! Ở đời
thiếu chi chuyện "ngó vậy mà không phải vậy"
nhưng nào có bị ai chỉ trích chút đỉnh nào
đâu?)
tiếp (2)
Một tuần sau đó, vào lúc các cửa phòng
giam đã khóa chặt, chúng tôi sắp sửa đi ngủ
thì hàng chục xe tải nhá đèn tới tấp rồi
chồm chồm qua cổng sắt, đỗ thành hàng
dọc cạnh các phòng giam. Tiếng khóa cửa
phòng lách cách mở ra, chúng tôi được lệnh tập
họp gấp mang theo toàn bộ tư trang hành lý (hầu
hết đựng trong các bị lác có quai xách). Ðiểm
danh xong, chúng tôi lần lượt leo lên xe.
Mang theo toàn bộ tài sản cá nhân, tất không phải
là đi làm tạp dịch chiến trường vì vậy
chúng tôi hí hửng cười nói râm ran như một lũ
học trò hồn nhiên vô tư được nhà
trường tổ chức cho đi dã ngoại.
Ðoàn xe trực chỉ bến tàu. Chúng tôi được
xua lên một con tàu nhỏ, chở hàng đầy
nhóc. Muốn ngồi vững, chúng tôi phải bám
vào nhau, hoặc víu vào các góc cạnh của thùng hàng.
Khoảng năm giờ sáng thì tàu cập bến
Lăng Cô, một bến dã chiến mới lập,
dành riêng cho mục đích quân sự. Khoảng một
trung đội lính Âu Phi, mỗi tên đều vai mang
súng, tay cầm roi lăm lăm. Roi toàn là thứ cần
ăng ten dài ngót hai mét, loại người ta thường
thấy gắn trên các xe chỉ huy.
Chúng tôi lên bờ, đi giữa hai hàng lính chỉ biết
"dàn" mà cóc biết "chào" ấy rồi dừng
lại ở ven rừng, cách mép nước chừng
vài trăm thước. Các giỏ hành lý được
lệnh tập trung vào một khoảng đất trống,
cỏ nửa vàng nửa xanh. Chúng tôi được
phép nghỉ ngơi mười lăm phút trên một
bãi cỏ vừa đủ chỗ xúm xít cho 200 tù nhân
chúng tôi. Chung quanh bãi cỏ ấy là những cây dại
mọc thành những lùm nhỏ, cây cao nhất chỉ
ngang đến thắt lưng. Ðây là nơi
được chọn làm bãi xí lộ thiên dành cho cả
lính lẫn tù. Vây ngoài cùng là những cây rừng cao
quá đầu người. Bọn lính cắt nhau
đi tuần đều đặn quanh hàng rào thiên
nhiên ấy để theo dõi quản lý những tù
nhân... xấu bụng (hiểu theo nghĩa sinh lý chứ
không phải tâm lý đâu nhé!).
Nghỉ ngơi xong, chúng tôi được lùa về bến.
Ở đấy đã lố nhố khoảng hơn
trăm tù gốc Thừa Thiên. Tất cả xếp
thành hàng dài, lần lượt từng người một
tự nhấc hàng lên vai, chạy lúp xúp trên chặng
đường dài hơn vài trăm mét, lổn nhổn
đá hộc. Hàng được chất lên xe tải.
Hôm ấy chỉ toàn rượu bia và rượu mạnh
chứa trong "két đúp" nên hơi nặng.
Ðiều phải lo lắng không ngừng là tính toán làm
sao cho bước chân trần của mình đặt
trúng chỗ phẳng nhất của viên đá chứ
không phải kẽ đá và giữ cho cái lưng đừng
cản đường tiếng veo véo của những
chiếc roi ăng ten ác nghiệt.
Tôi giở trò láu cá, mỗi lần bốc vác cứ oằn
sườn chạy liểng xiểng, lảo đảo
như sẵn sàng ngã sấp để sán lại thật
gần các tên lính đang vung roi. Rủi tôi vấp
chân, va cạnh thùng bia vào ngực tên nào nhất định
tên ấy phải dưỡng thương, bón cháo cả
tuần lễ như chơi! Rốt cuộc, chính
chúng phải sợ tôi còn nhiều hơn là tôi sợ
chúng!
Ðến gần trưa thì xong việc bốc hàng.
Chúng tôi nối đuôi nhau đi bộ về trại
theo hàng một trên quãng đường cát quanh co
như chơi trò rồng rắn của trẻ em.
Trại là một số lều bạt căng san sát
trên một nghĩa trang đã dời đi, để
lại vô số mảnh vụn mục nát của áo
quan cùng những hang hốc đào khoét đây
đó. Khu trại được vây chung quanh bằng
mấy lớp dây kẽm gai với hai lô cốt cao ngất
ngưởng. Lều bạt chỉ che được
sương đêm, còn ban ngày cứ nóng hầm hập.
Tôi tụt xuống một huyệt mộ cũ, cảm
thấy đỡ nóng hơn bèn làm luôn một giấc
đến nửa chiều thì bị đánh thức bởi
tiếng cười nói lao xao tứ phía. Nhô đầu
lên khỏi huyệt, tôi thấy lều nào cũng bày tiệc,
bày sòng. Sòng là cách gọi cho dễ hiểu, kỳ
thực người ta chỉ chơi rặt một loại
cờ mộc mạc là cờ gánh, quân cờ là những
vỏ sò. Trái lại, tiệc thì quá ư rôm rả,
rượu bia, sâm banh, cô nhắc, mạc ten uống
thoải mái vì toàn của miễn phí do chúng tôi "thuỗng"
được trong khi làm việc. Trong lúc vác hàng
quật đại lên xe hễ két hàng nào vỡ ra, lính
thộn đầy các túi hai bên đùi xong là phẩy
tay, cho phép tù tùy tiện. Nhờ xe chạy ngang
đầu đường vào trại nên chúng tôi cứ
việc vất bừa "chiến lợi phẩm"
lên cát. Lính trên lô cốt ra nhặt về vứt
vào các lều và tự trả thù lao hậu hĩ cho
công nhặt của chúng.
Muốn rõ quân đội Pháp được tiếp tế
ra sao, cứ việc quan sát các chiếu tiệc của
chúng tôi là rõ. Các tên Pháp quản trại cùng áp tải
thừa biết chúng tôi lộng hành nhưng cũng thừa
hiểu rằng chúng tôi tiết kiệm cho họ gấp
ngàn vạn. Trước đó cứ đoàn tàu nào
có móc theo toa bọc sắt chở lính hộ tống
thì mười lần khó hòng thoát một. Chín lần
kia luôn là tàu lật, hàng lẫn người mất sạch,
chưa kể còn tốn công hành quân nhặt xác.
Ngày này sang ngày khác, chúng tôi toàn làm cu li buổi
sáng, làm vua buổi chiều như vậy cả.
Ngày hôm sau, khoảng ba giờ sáng, bộ phận bếp
núc đã lục đục tiến hành việc cơm
nước. Chúng tôi được lãnh suất
đôi cho bữa sáng và bữa trưa rồi ra bến
chờ tàu đến. Việc chờ đợi
thường kéo dài hàng giờ nên có đến hơn
phân nửa số tù lăn ra ngủ vớt, lắm anh
say giấc đến mức từng còi tàu ghé bến
dội vào núi như sấm rền mà vẫn còn nói
mơ lảm nhảm.
Ðiều tôi sợ nhất đã lò dò tìm đến:
Hôm nay tàu chở toàn gạo với... gạo! Mỗi
bao gạo bấy giờ nặng tròn một tạ, tức
gấp đôi bao gạo ngày nay. (Có lẽ người
ta tiết kiệm sợi gai dệt bao nhưng lại
quên tiết kiệm sức khỏe công nhân bốc
vác!). Bốc vác loại hàng ấy ở các kho bãi
thường dùng một nhóm công nhân "đặc chủng"
gọi là phu gạo. Họ có sức khỏe tốt
hơn và xương sống dẻo hơn. Tự
lượng sức "dài lưng tốn vải"
của mình, tôi biết mình không tài nào "chơi" nổi
các chiếc bao sọc xanh rùng rợn ấy. Phải
cố thoát cho bằng được, mới mong bảo
vệ nổi cái xương sống tội nghiệp
của mình.
Tôi bập bẹ một câu tiếng Pháp với
gã lính da đen đang ve vẩy chiếc roi. Gã gật
đầu. Tôi tót ngay vào bãi xí. Bụng tôi chỉ
muốn cất tiếng hát "là lá la" chứ không
cảm thấy căng thẳng, bức xúc như những
bụng khác khi rảo bước vào cái bãi sặc mùi
thập cẩm nọ.
Liếc nhìn quanh, tôi thấy có vài ba trự đang
"thượng khẩn" giải quyết việc
trút bỏ. Họ vừa quay về chỗ làm là
tôi nhích tới điền ngay vào một chỗ mà kẻ
kia vừa hối hả bỏ đi. Ðể việc
"chiếm dụng" được hoàn hảo,
tôi còn phải "dũng cảm" nhón lên rồi vứt
ra thật xa cho bằng hết những chiếc lá rừng
bẩn thỉu mà người "tiền nhiệm"
tự thấy không có thứ bổn phận trời
ơi ấy. Tay tôi khư
khư một cành nhỏ lá xanh.
Mấy tên lính quá bộ vào kiểm tra thường chỉ
thực hiện qua quít vòng ngoài, chắc không tên nào chịu
hao công tốn sức khám phá gian ý... siêu đẳng ấy
của tôi. Lẽ nào màng mũi của chúng
được cấu tạo bằng chất liệu
khác được nhỉ?
Mặt trời tháng bảy ở miền nhiệt
đới nầy đã xối thêm lửa xuống bãi
xí. Tôi sửng sốt nhận ra "món sản phẩm
gian lận" nọ đã giở quẻ se mặt,
ngả màu nâu nâu. Nguy cơ bị "lột mặt
nạ" đã lăm le hại tôi đây?
"Thật là hỏng bét!" Tôi nháo nhác nhìn quanh
cố tìm tang vật mơi mới để kết
đồng phạm. Khó khăn thật! Tuy mùi
xú uế đã xua mấy tên lính tuần giạt ra xa
thêm, nhưng không biết tôi đã lay hoay vụng về
ra sao lại lọt đúng vào tầm ngắm chênh chếch
của một gã lính da đen rạch mặt. Thật
là rách việc!
Gã quá xốn mắt trước việc tôi diễn cái
trò nhích tới nhích lui bất chấp vệ sinh, bèn
xăm xăm bước vào bãi xí, phẩy tay một
cách thật cương quyết. Gã nhất định
không thèm "duyệt" cành lá rừng tôi vẩy vẩy
để làm bằng chứng rằng mình đang làm...
nhiệm vụ đặc biệt. Tôi đành ríu
rít đưa tai cho lão có chỗ nắm, xển tôi ra xếp
vào cuối hàng cu li tù. Hàng người này liên tục
bổ sung và cũng liên tục nhích dần tới phía
trước.
Thấy chỉ còn mươi người nữa là
đến lượt tôi phải è lưng cõng chiếc
"ba lô" to đùng ấy, tôi năn nỉ mấy
người đứng sau lưng:
- Mầy nhích lên giùm tao đi! Mai mốt Tây có sinh sự
gì, tao gỡ giùm cho!
Phỉnh đại như vậy chứ hạng tôi mà
còn gỡ giùm nổi ai? Vậy mà cũng có
được mấy kẻ bùi tai lời dụ khị
ấy. Thế nhưng món dụ khị cũng
không hơn gì món kem, chỉ một chốc là tan sạch.
Ðến kẻ thứ mấy đó thì lừa đã gặp
lừa! "Lừa" của tôi là lừa gạt,
còn "lừa" của hắn là lì lợm thứ
thiệt! Năn nỉ đến lần thứ
ba mà hắn vẫn một mực giả điếc,
tôi quan sát thật nhanh các tên lính rồi bỏ chỗ,
chạy đại xuống gần cuối hàng.
Tôi chỉ gần thành công trong việc quan sát Tây mà thất
bại trọn gói trong việc quan sát ta! Mấy gã
tù thấy tôi chơi bẩn, tóm lấy áo tôi co kéo tối
đa, làm cho trật tự bị sổng mất!
"Tham thì thâm" cổ nhân dạy thật ác!
Tên thủy thủ đứng trên đống gạo
phát hiện đầy đủ hành vi bất
lương của tôi, hắn nổi giận đùng
đùng, phóc xuống nắm tóc tôi dắt lên đứng
vào vị trí... số 1!
Hắn giận là quá đúng, bởi hắn có bổn
phận giao gạo cho chúng tôi vác, chúng tôi nổi máu quậy
kéo theo nhiều kẻ bắt chước khác thì hắn
còn biết giao cho ai? Ðâu thể neo tàu lại xem cảnh
náo loạn cho được? Nhưng tôi chịu
"thâm" thì đau quá, bởi tôi nào có tham? Nếu
tôi nhào vào giành gạo để vác thì bảo
"tham" mới đành một lẽ chứ!
Chuyện nguy hiểm đã đến. Tên thủy
thủ nặc nô túm tóc tôi lúc nãy có lẽ thời
chưa đi lính hắn đã từng là lực sĩ
cử tạ chuyên nghiệp thì phải. Hắn
đứng dạng chân trên đống gạo cao ngang
mép tai tôi, hai cánh tay dang rộng, hắn bấu vào hai
góc bao gạo, nhấc bổng lên. Tôi còn chưa chọn
được thế đứng tấn cho ra hồn
thì a - lê - hấp! hắn "bịch" một phát,
bao gạo tìm đúng địa chỉ cái lưng khốn
khổ khốn nạn của tôi. Mắt tôi tóa
đom đóm, chân tôi chao tới chao lui ngoài vùng phủ
sóng của thần kinh hệ, người tôi lắc
lư như kẻ lên đồng. Tôi thử cất
bước nhưng bàn chân vẫn bám chặt sàn tàu nóng
rực, không có cách nào giở lên nổi. Túng quá hóa
liều, tôi nghiêng đại bao gạo vào người
bạn tù mới trờ tới. Anh ta bị bất
ngờ, cố sức giãy ra nhưng vô phương, bởi
gạo trong bao đã chuyển hẳn trọng tâm sang
anh ta mất rồi. "Véo" một tiếng,
chiếc cần ăng ten vụt vào tôi nhưng lại
trút vào anh (như chuyện bao gạo) phía mút đau quắn,
anh ta đành bước giật lùi rồi xoay người
lại, miễn cưỡng cùng khiêng với tôi.
Bao gạo che khuất mặt anh nhưng tôi thừa sức
đoán là mặt anh đỏ hơn bao giờ hết.
Ngay đấng Từ bi cũng khó thể nhịn nổi
thủ đoạn xỏ lá ấy của tôi. Sực
nhớ ra thứ "bùa thiêng" của mình, tôi
"chuyển tông", bước thấp bước
cao trên bãi đá hộc lổng chổng, gầm lên một
câu tiếng Pháp "Tôi bị ốm!"
Tống xong bao gạo tội nợ nọ lên xe, quay lại
bến, tôi móc ngay tấm phiếu khám bệnh đã
được tôi thêm con số không sau con số 1,
trình với tên Pháp chỉ huy cuộc dỡ hàng.
Hắn nhìn thẳng vào mắt tôi mấy giây rồi
nhúm vai, hất hàm, cho phép tôi "từ chức" phu
gạo bất đắc dĩ. Chỉ chờ có
thế, tôi ngả lưng ngay chỗ mấy viên đá
kê khá phẳng, cách chỗ đứng của y không
xa. Phải nằm vạ ngay ở đấy tôi mới
mong đở bị cần ăng ten tìm đến.
Mấy gã tù rảnh tay lúc về cứ lướt
mắt mỉa mai đứa nhác việc làm tôi sợ lộ
quá đỗi. Tôi đậy chiếc nón rách lên mặt
để kiếm một giấc ngủ lơ mơ,
phần nào giống việc vận công điều tức
của con nhà quyền cước.
Một lát sau, hai bạn tù lăn một thùng rượu
chát ngang chỗ tôi... dưỡng bệnh. Không rõ họ
dùng thủ pháp ra sao mà đá hộc đã chém vỡ một
mảnh ván thùng, rượu tuôn ra lênh láng nhuộm
đỏ các viên đá. Mấy tên lính reo lên, chạy
lại dựng thùng rượu, đứa hối hả
nhét khăn vào chỗ thủng, đứa hấp tấp
cạy nắp vục mũ sắt vào múc bát nháo, khua
nhau côm cốp. Một số tù gần đấy
cũng được hưởng chế độ
"của người bồ tát".
Giữa cảnh nhốn nháo ấy, không nhớ ai
đó đã đem biếu tôi nửa lon. Ði múc tranh
với người ta mà xoay đâu được loại
"túi sáu gang" như anh ta thì quả thật là bản
lĩnh cao hơn tôi nhiều. Anh ta ngồi chờ
lấy lại chiếc lon quý hóa ấy nên tôi phải uống
tốc hành. Có ngót nửa lít vang vào, vai trò đau ốm
của tôi diễn càng thêm đạt, vừa ra vẻ
sốt cao, vừa có vẻ mấp mé mê sảng đến
nơi. Các bạn tù chả còn thiết gì chuyện
trêu tôi, có lẽ họ cũng đang say.
Hai ngày kế tiếp, tôi khỏi ra bến, ở nhà hí
hửng... với bùa.
Các bạn tù ra bến lúc gần bốn giờ sáng thì
khoảng năm giờ, ngư dân Lăng Cô và đám
đầu nậu buôn cá cũng ca khúc khải hoàn.
Tôi nằm sát mí kẽm gai nên nhỏm dậy chào hỏi
họ mấy câu, cốt thỏa mãn nỗi thèm nói chuyện
với người ngoài (Tôi nghi kiếp trước của
mình có lẽ chẳng là khỉ đột thì cũng là
đười ươi sở thú!) Ðang say chuyện
thì lão Tây thình lình xộc về bắt gặp, "xạc"
cho một trận. (Tôi thì lại chỉ muốn
"xạc" cho lão ta một vố về cái tội
chỉ có mỗi gói thuốc lá mà cũng bỏ
quên!) Tôi phân bua với lão rằng cô gái nọ là con
người chị của mẹ tôi, lấy chồng
Huế đến nay mới tình cờ gặp lại.
Trình độ tiếng Pháp lớp Sáu của tôi bấy
giờ... "thừa sức qua cầu" mấy câu
ấy.
tiếp (3)
Hôm sau, cô gái nọ vấp phải hòn đá nào
đó dưới cát ngã sóng soài, cá văng tung tóe.
Cô ta buông đòn gánh, lom khom cúi nhặt trong bóng đêm về
sáng. Cô luôn cố tình quay lưng về phía tôi.
Bọn lính trên lô cốt không thể nghi ngờ gì
được. Với thủ đoạn ấy,
cô ta cứ việc sờ soạng mặt cát như
người mù, chuyện trò thoải mái.
Cô ta tò mò:
- Hôm qua, thằng Tây quát mắng anh dữ hỉ?
Tôi bốc phét:
- Mắng gì mà mắng? Tui mắng nó đó chớ!
- Tui nghe giọng hắn the thé mà?
- À à..., tật của hắn rứa đó. Hắn
bị suyễn kinh niên. Ngay cả khi nói với sếp,
giọng hắn cũng rứa!
- Thôi đi! Miềng nỏ tin mô! (Tôi không tin
đâu!) Còn eng (anh) nói chi với hắn mà nhiều
rứa?
Tôi hư cấu thật bố láo cho vui:
- Hắn hỏi tui: Coi bộ thân nhau lắm hả?
Tôi bảo: Thân cái đếch gì mà thân? Cô ta là
vợ cũ của tôi, bỏ đi theo trai gần sáu
năm nay tui mới gặp...
Cô ta khúc khích thành tiếng. Lòng tôi vui hẳn
lên. Trời chưa sáng hẳn, chúng tôi chưa nhận
rõ mặt nhau do còn cách đến mấy mét kẽm
gai. Có lẽ vì vậy nên cô ta bạo miệng:
- Nỏ ngủ với nhau lần mô mà dám nói là vợ cũ!
Vô duyên! Nói ngụy tới rứa (dối đến
thế) mà Tây cũng tin tề! (kia!)
Tôi làm bộ tức tối:
- Sao lại chưa ngủ với nhau? Tui kể lại
hết
trơn cho coi! Tụi "miềng" tuột
nhau tuốt luốt...
Dzui thiệt!
Giọng cô ta rướn lên như quát thét làm tôi mất
sạch hai tiếng sau cùng.
- Ðồ quỷ! Nỏ nói chuyện với eng nữa
mô!
Cô ta cất gánh lên, te tái chạy như ma đuổi.
Trời sáng dần. Tôi nhận ra bên ngoài hàng rào kẽm
gai có gần một chục cá bạc má xếp ngay ngắn
chồng lên nhau, chứng tỏ không phải là món cô ta
nhặt sót.
Bất ngờ và kín đáo thay! Lại còn thâm thúy
"chết người" nữa chứ! Dân
gian có câu đố về con cá bạc má như sau:
Vai mang khăn gói sang sông,
Mẹ kêu mặc mẹ lấy chồng con đi...
"Bạc má" ngụ ý là theo chồng quên mẹ!
Hay ơi là hay! Cô ta cố ý làm thế đấy!
Có đến mười con cá cả thảy, tức
là cô ta thích đứa xạo như tôi gấp... chục
lần má cô ta!
Tôi lại nghĩ lan man: Nhan sắc cô nàng ra sao nhỉ?
Cằm chẻ hay... môi chẻ? Mặt trái xoan hay mặt
bánh bao? Mắt lúng liếng đong đưa hay lở
dở lé xệch? Tôi thật là nhọc sức cho
cái vụ đoán mò ấy.
Tôi nối hai thanh củi nhỏ thành cái cần khá chắc,
cuối cần tôi buộc vào một mẩu kẽm gai
rồi lần lượt "câu" xong số cá trên
cát bên ngoài hàng rào. Công việc thật ra dễ dàng
hơn tôi tưởng nhiều.
Không rõ vì đâu tôi không gặp lại cô ta nữa.
Bây giờ tôi mới nhớ ra là chúng tôi chưa hề
hỏi tên nhau. Tệ thật!
Nằm giữa bãi tha ma cũ để hứng chịu
cái nắng hầm hập suốt ngày, tôi lo cái ốm
thật chẳng mấy chốc sẽ thay thế cái ốm
giả mất. Tôi phải... đẩy nhanh tiến
độ "chạy làng" mới được.
Tôi nhặt một vỏ lon cá hộp, khạc vào đấy
một mớ đàm nhớt rồi xỉa chân răng
mình cật lực để lấy máu hòa vào rồi
đánh lên cho thật đều. Một thợ
bánh chăm chỉ nhất chắc cũng chỉ ra
công đến thế mà thôi. Cuối cùng tôi gia vào
đấy một "vị" nữa là có
được một sản phẩm hoàn hảo cho kế
hoạch tởm lợm của mình. Ngay chiều
hôm ấy, tôi chọn đúng lúc sếp Tây đứng
cạnh cửa rào, tôi ké né xin phép ra ngoài vòng rào.
Lão hỏi:
- Mầy giấu cái gì đó?
Ðã đến lúc không thể tiếp tục
thương hại cái mũi mình được nữa,
một tay tôi tự véo vào mũi mình thật mạnh
tay khiến đôi mắt cũng chịu vạ lây xệch
hẳn ra một bên, còn tay kia tôi rụt rè làm như cực
chẳng đã chìa chiếc vỏ hộp cá, hơi lắc
một chút đủ thì giờ cho lão nhận ra "bảo
bối" rồi giấu phắt ra sau lưng như
cũ. Tôi lúng túng giải thích:
- Tôi chôn gần lều mấy lần rồi nên ai cũng
chửi.
Lão hoảng hốt bóp đại chiếc mũi lõ, phẩy
tay vô cùng dứt khoát, chỉ mong tôi cút xéo cho nhanh.
Phải thừa nhận rằng lão ta vô cùng nhạy bén
trong việc mắc mưu!
Sáng hôm sau, việc tập họp có hơi khác. Những
ai cáo ốm được tập họp riêng ra một
bên. Số "bệnh tù binh" ấy có tất
cả hơn năm mươi mống, kể cả
tôi.
Nghe gọi đến tên mình, vừa hổn hển rặn
mấy tiếng "pờ... rề... dâng" (có mặt),
vừa khổ sở chống một tay lên mặt
đất, tay kia tôi bấu vào vai người ngồi
phía trước làm anh ta nhăn nhó té sấp. (Tuy
đồng bệnh nhưng đâu dễ gì
thương nhau?) Tôi bám nhanh sang bờ vai cạnh đấy,
lom khom gượng đứng lên thật chậm.
Ðã thế tôi lại còn phải lao chao run rẩy tí
chút mới thực sự ăn khách. Quả
nhiên cả sếp Tây lẫn sếp ta đều cho rằng
toàn bộ bè lũ ma rừng ma biển của xứ
Lăng Cô nầy đã xúm nhau hút hết xương tủy
tôi, thế là tôi lập tức được xếp
vào số mười người được phép
trở về nhà lao Con Gà. Số còn lại, phải
ốm tại chỗ, tức là họ chỉ còn cầu
khẩn tổ tiên chứ nơi đây không có y tá, cũng
chẳng có thuốc men gì hết.
Mười bệnh nhân được phép mang theo vật
dụng cá nhân ra bến ngồi chờ. Hơn 15
giờ tàu mới dỡ xong hàng, nổ máy tà tà lùi khỏi
bến, quay mũi trực chỉ Ðà Nẵng, mang theo số
"bệnh tù binh". Tôi không quên móc ngay tấm
phiếu khám bệnh đã bị cập nhật hóa ra
làm... kẹo cao su. Không lo phi tang cho kịp lúc thì chỉ
còn nước ốm đòn!
Lúc ra đi tàu chở ngót vài trăm tấn, lúc về
chỉ chở có mười mống suy nhược, nặng
chưa tới nửa tấn tức chưa bằng
1/400. Khi đi, tàu xé sóng băng băng thì khi về,
sóng xé tàu bầm dập. Con tàu nhẹ tênh khiến
chúng tôi có cảm giác như đang ru trên một chiếc
võng cực dài, đưa tít lên tận nóc tòa nhà ba, bốn
tầng rồi ru trả theo chiều ngược lại.
Ðã thế, tàu còn lái dích dắc để tránh các ngọn
sóng nên đám tù lẫn mọi thủy thủ đều
đuối lả, chỉ khác nhau là chúng tôi
"được phép" nằm xụi lơ, còn
các thủy thủ, trừ người đang lái bám cứng
vào vô lăng, đảo người xiêu qua xiêu lại,
các thủy thủ khác cứ hết giạt qua góc nầy
nôn ọe vào chiếc xô treo sẵn bên vách tàu lại giạt
sang góc kia tái diễn trò ấy. Gã nào gã nấy
đều dốc hết mật xanh mật vàng, mặt
mày tái mét. Trông họ nhếch nhác đến mức
có về nhà chưa chắc người thân của họ
nhận ra nổi.
Ngay từ thuở bé tôi đã có dịp đi tàu thủy
cùng bố. Tôi ngơ ngác khi thấy có quá nhiều
người cùng mửa ồ ạt như vậy.
Nếu thừa nhận sự sống từ biển
đổ bộ lên cạn thì có lẽ tôi thuộc vào
hàng rặt giống nhất. Chung quanh tôi, ai nấy
bấn cả lên, còn riêng tôi, mắt vẫn chong qua cửa
ô gắn kính ở vách tàu, nhẩn nha quan sát đây
đó những chú rùa biển dập dềnh, duỗi hết
tứ chi, phó mặc tấm thân kềnh càng cho sóng gió
hành hạ tàn nhẫn.
Tàu cập bến. Thành phố đã lên đèn từ
lâu. Gió đêm hơi lạnh. Nhìn lên bờ
đã thấy chiếc xe tải quen thuộc đậu
lù lù từ bao giờ. Ðược phép rời tàu,
tôi nhanh chân leo ngay lên xe, tìm cho mình chỗ kín gió nhất.
Các thủy thủ lại sức khá nhanh, đã chia nhau
kẻ dìu người đỡ một lúc mới ném
xong chín "tàu chuối héo" lên xe với tôi.
Xe mới chạy đến đầu đường,
chúng tôi đã nghe tiếng hò hét, tiếng hát ông ổng,
tiếng cười nói ầm ĩ của đám Tây
say vang ra từ phía trại giam xa xa.
Tên tài xế nhấn còi đến thấm mệt mới
thấy cánh cổng lịch kịch mở ra. Ngay
trước dãy nhà văn phòng, một đống than hồng
vẫn còn hừng hực, lớp tro trắng bên trên
chưa che kín hết. Mùi gây gây, khen khét của cuộc
thui cừu hãy còn phảng phất trong không khí.
Hôm nay là ngày Quốc Khánh Pháp. Hơn mười giờ
đêm mà cuộc vui vẫn chưa có dấu hiệu sắp
tàn. Chúng tôi kẻ đứng người ngồi
vạ vật trước thềm chờ Tây Cọt ra
nhận. Hai thủy thủ nóng lòng đi qua rồi
đi lại trước hành lang chờ chữ ký của
y không biết đến bao giờ mới có.
Tây Cọt lảo đảo bước ra ký sổ nhận
tù. Lão có vẻ cáu kỉnh vì bị quấy rầy
không phải lúc. Chẳng những thế, lão còn
bước hụt khi xuống bậc cấp, may mà tên
lính đi cạnh đưa tay giữ lại cho, bằng
không, có lẽ sự cố diễn ra không nhỏ.
Chỉ có mười mống mà lão đếm tới
hai lần mới xong. Ðếm đến
"năm, sáu” thì lão nấc cụt rồi quay ra hắt
xì hơi mấy cái liền, thế là lẫn lộn
tùng phèo, phải cẩn thận đếm lại.
Vô phúc đếm sai, cái lon trung sĩ của lão bay
tưng như chơi!
Lần đếm lại nầy, lão nhận ra
tôi. Thì ra những cú hắt hơi lại có công dụng
xua được cơn lú lẩn do rượu gây ra.
Lão vẫy tôi lại gần. Tôi thầm đoán rằng
lão ta có lẽ động lòng bác ái rồi đây.
Tiêu đề của cách mạng Pháp là “Tự do - Bình
đẳng - Bác ái” kia mà! Nhậu tưng bừng nhân dịp
Quốc Khánh, đương nhiên là cấp lãnh đạo
có nhắc đến ba cái tiêu đề then chốt ấy
và rượu săm banh làm cho chúng ngấm thêm lên.
"Tự do, Bình đẳng” rõ ràng là chối tai, cai
ngục chẳng thể nào đem áp dụng với tù
nhân được, như vậy chỉ còn lại mỗi
cái "Bác ái" là xài tốt. Chắc là lão sắp
giao cho chúng tôi "tiêu diệt" nốt bữa tiệc
hoặc chí ít thì cũng một ly săm banh, nhân danh
Cách mạng 1789!
Tôi hớn hở bước lại, nói thật
trơn tru câu tiếng Pháp đã được nháp sẵn
trong trí ngay khi còn ngồi núp gió trên xe:
- Chúc sếp Quốc Khánh vui vẻ!
Lão nhe răng cười, hỏi tôi:
- Mầy ốm, phải không?
Tôi gật đầu.
Lão đưa bàn tay phải ra chờ tôi lại gần
tầm hơn. Tôi nghĩ bụng: "Lại
có cái vụ bắt tay nữa kia ư? Sếp
chơi sang quá đấy! Quả là Quốc Khánh cũng
có khác tí chút!"
Trái với điều tôi nghĩ, lão ta chẳng thèm
đếm xỉa gì bàn tay tôi giơ ra đầy thân
thiện mà nắm luôn cả cánh tay tôi chỗ gần
nách rồi ghì mạnh. Tôi còn chưa hiểu ra chuyện
gì, có dính dáng Quốc Khánh, quốc khiếc chút nào không
thì chân trái của lão bất thần "múc” một cú
vào mông tôi. Tôi nhào lộn hai vòng một cách vô thức.
Cũng may là ý thức can thiệp kịp thời, tay
tôi kịp chống lên cạnh mép đống than thui cừu!
Tôi lóp ngóp bò dậy, ngực đập thình thình như
trống lễ hội. Hú vía! Nếu tôi chống
tay trễ nửa tích tắc, có lẽ tôi chẳng
hơn gì chú cừu tận số nọ.
Cú đá thứ hai của chuyện nầy quả là
hoành tráng và rất chi là ấn tượng!
Giáo
Sư Ngô Văn Lại 吳文赖老师
<photo>
Việt Nam, Tháng 03, 2007
|