Nguyên
tác: “旅次書感”
儋州黎元笑佛先師親筆遺作
“LỮ THỨ THƯ CẢM”
( Di
bút của cố giáo sư Tiếu Phật Lê Nguyên
người Đạm Châu )
Nhiều lần may
mắn được đọc thơ của
TIẾU PHẬT, tôi có một ư nghĩ ngộ
nghĩnh: Nếu có một tổ chức văn hóa nào
đó bày cuộc thi thơ theo chủ đề Hoài
Niệm Cố Hương, tôi tin rằng Tiếu
Phật sẽ giật giải quán quân, cùng lắm là á
quân sát nút. Tôi xin bàn về bài thơ của Ông
dưới đây:
VIẾT CẢM XÚC CỦA KẺ LỮ THỨ
Câu 1: My Giang
thu sắc liễu vô ngân,
(湄江秋色了無痕)
Mùa thu là mùa của thi nhân, nước
nào cũng có một số bài viết về mùa thu
được lưu lại trang trọng trong các tuyển
tập, trong sách giáo khoa. Bài Thu Thanh Phú của Âu
Dương Tu đời Đường đă đứng
vững như thế hơn một ngh́n năm. Ở
Việt Nam cũng có chùm thơ ba bài Thu ẩm, Thu
Điếu, Thu Vịnh của Tam nguyên Nguyễn Khuyến,
có Cảm Thu, Tiễn Thu của Tản Đà Nguyễn
Khắc Hiếu, có Đây Mùa Thu Tới của Xuân Diệu,
Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư, vv…Các nhà
thơ phương Tây cũng không ngoại lệ. Thế
nhưng với Tiếu Phật th́ ở quê
hương My Giang của Ông, sắc thu đă trôi
đi mất không để lại dấu vết ǵ
(Thu sắc liễu vô ngân).
Chỗ thâm thúy ở câu này là nơi
quê hương Ông người ta không thể duy tŕ nghệ
thuật chân chính, bản nhiên. Và ẩn ư ở đây
là nước Trung Hoa mới tuyên bố thành lập
ngày 1/10/1949 th́ quả là mùa thu đă kết thúc từ
hôm trước. Có lẽ nhiều người đồng
t́nh với khám phá ấy của tôi.
Câu 2: Thặng
giác càn khôn bán oán ân. (剩覺乾坤半怨恩)
Hai chữ thặng giác đă làm rơ bản
lĩnh của Tiếu Phật. Nó ngụ ư rằng ông
biết nhiều hơn người khác về “càn khôn
bán oán ân”. Giữa vũ trụ mênh mông này, điều
oán với điều ân mỗi bên một
nửa. Ở My Giang của Tiếu Phật giờ
đây có phân nửa người, việc để cho
ông căm oán, và cũng chừng ấy người
để ông ta nhớ ơn. Suy rộng ra, mọi biến
cố thời cuộc đều dẫn đến
t́nh trạng ấy. Đấy là một thứ chân lư
của càn khôn.
Câu 3-4: U kính thảo thâm mê liễu
nhứ, (幽徑草深迷柳絮)
Hoang tŕ thủy thiển táp b́nh
căn. (荒池水淺匝萍根)
Lối đi bị cỏ xanh rậm
rạp che lấp khiến người ta không c̣n nh́n thấy
những “liễu nhứ” là thứ thường bay
trong không gian lơ lửng nhờ chất lượng
siêu nhẹ. Việt ngữ c̣n chưa có từ để
gọi hiện tượng ấy. Một nhà thơ Việt
đă sáng tác bài “Tơ Trời Với Tơ Ḷng” đă
nhấn mạnh hiện tượng “liễu nhứ” ấy.
Cỏ xanh trên lối cũ khiến người ta
không c̣n nh́n thấy liễu nhứ cũng là một ư
thơ tương tự “thu sắc liễu vô ngân” ở
câu 1.
Và ở câu 4 là một h́nh ảnh có
chiều sâu ấn tượng rất đáng kể,
đấy là ao hoang nước cạn bày ra những rễ
bèo. Tác giả viết bài thơ này trên đường
lữ thứ, cũng có nghĩa là đang nhận thân
phận một cánh bèo trôi dạt vô định. C̣n ở
quê hương ông cũng có những cánh bèo muốn trôi
dạt nhưng lại nước cạn của ao
hoang không cho phép. Ông được lênh đênh trôi dạt
nhưng cũng không t́m ra hạnh phúc, điều này
ông đă than thở hơn một lần ở các bài lữ
thứ khác. Cảnh ngộ của ông trùng hợp với
t́nh cảnh nàng Vương Thúy Kiều của Nguyễn
Du ngậm ngùi than thở cho 15 năm lưu lạc :
Nghĩ
ḿnh mặt nước cánh bèo,
Đă
nhiều lưu lạc, lại nhiều gian truân.
Tuy nhiên, chính sự lưu lạc
gian truân của Tiếu Phật đă tạo nên chất
lượng cho thơ ông đúng theo định luật
“cùng nhi hậu công” (cùng khổ th́ sau mới có công lao
thành tích)
Câu 5-6: Nhật di lệ ảnh
đầu lân bích, (日移淚影投鄰壁)
Phong tống tâm thanh khấu quốc
môn. (風送心聲叩國門)
Mặt trời di chuyển gieo ánh
sáng xuống muôn vật, nhưng Tiếu Phật có lối
nh́n khác: những tia sáng của mặt trời là h́nh ảnh
của giọt lệ. H́nh ảnh ấy đă xảy
ra trên vách tường nhà hàng xóm. Hóa ra ông không nh́n ánh
sáng mặt trời bằng mắt thường mà nh́n bằng
tâm thức. Điều ấy xem ra khá dễ hiểu
cho người đọc câu này.
Và tâm thức của ông c̣n được
gió đưa về tận tổ quốc để gọi
cổng nước ḿnh. Th́ ra tổ quốc đă
đóng cổng lại với ông và bản thân ông cũng
muốn về thăm bằng tiếng ḷng, tiếng
gió, ngụ ư chỉ lướt đến rồi
đi như một vị khách hững hờ, không tính
toán chuyện lâu dài.
Câu 7-8: Phóng tận thiều thiều
thiên lư mục, (放盡迢迢千里目)
Dị bang lưu hữu Hán gia hồn. (異邦留有漢家魂)
Lại một cái nh́n tâm thức khác
với tầm xa xôi ngh́n dặm, cái nh́n ấy chỉ tạo
nên ngậm ngùi bâng khuâng, không giúp ích ǵ cho tâm hồn ông.
Ông chỉ có thể tự bằng ḷng với ḿnh là tuy
trôi nổi ở nước khác (dị bang) nhưng
ông giữ lại được tâm hồn dân tộc
của ḿnh (lưu hữu Hán gia hồn).
Tất cả những điều
phân tích trên đây, tôi không dám chắc là đă hiểu
thấu tâm trạng của Tiếu Phật mà chỉ
để tỏ chút ḷng cảm thông muộn màng, ít ỏi
bằng khả năng có hạn của ḿnh để
tỏ chút ḷng với một lăo sư cùng dạy ở
trường Khải Minh – Nha Trang.
Bài dịch sau đây tôi dùng thể
thơ lục bát vừa để dễ chuyển tải
ư tứ vừa để phù hợp với tâm trạng
tác giả, tương tự như:
Chiều
chiều ra đứng ngơ sau,
Ngó về
quê mẹ ruột đau chín chiều.
Đấy cũng là tâm trạng của
Tiếu Phật.
VIẾT LÊN CẢM XÚC KẺ
LƯU VONG Ở SÀI G̉N THÁNG 7/1958
My
Giang đă hết sắc thu,
Đất
trời c̣n lại nửa thù, nửa ơn.
Lối
xưa cỏ khuất xanh rờn,
Bèo
phơi gốc rễ, ao chuông trơ nền.
Nắng
chiều lă chă tường bên,
Tiếng
ḷng theo gió về xem nước nhà.
Phóng
nh́n ngh́n dặm cách xa,
Xứ
người ở vậy, thiết tha quê ḿnh.
Chi Nhất 之一
chuyển ra Việt
ngữ
Việt Nam,
02/2013
|