Phiên
âm:
DẠ QUAN THANH NHÂN HÍ TRƯỜNG DIỄN
HÍ
Liệt
cự thôi minh tối thượng đàn
Nhất
thanh hám khởi dạ phong hàn
Kích tu
tráng sĩ phương hoành giáp
Nỗ
mục tướng quân dĩ cứ an
Xuất
thế khởi vô chân diện mục
Phùng
trường lăng tiếu cổ y quan
Hổ
môn cận sự quân tri phủ
Thán tức
hà nhân ủng tị khan
*
Dịch
nghĩa:
ĐÊM XEM KỊCH NGƯỜI THANH Ở
NHÀ HÁT
Sân khấu
bày đèn đẩy ánh sáng (đến mức) lên cao
nhất,
Một
tiếng quát vang lên (làm) lạnh cả gió đêm.
Tráng sĩ
râu kích (1) vừa xê ngang áo giáp,
Tướng
quân mắt nỏ đă ngồi trên yên ngựa.
Ra
đời há không mặt, mắt thật?
Đến
nhà hát cười tràn (về) áo măo xưa.
Việc
gần đây ở Hổ môn (2) ông biết chưa?
Than thở
(cho) người nào chen mũi xem.
*
Dịch thơ:
La liệt đèn treo rạp sáng choang,
Hét lên một tiếng, lạnh đêm tàn.
Râu đinh tráng sĩ vừa xê giáp,
Mắt nỏ tướng quân đă vỗ
yên (an).
Há lẽ cuộc đời không mặt thật?
Thảo nào sân khấu lắm y quan?
Hổ môn chuyện nọ nghe chưa nhỉ?
Thương hại cho ai chúi mũi càn!
Thái Trọng Lai 太重来 dịch
Nhà
Nghiên Cứu – Đà Nẵng, Việt Nam, 2008
Chú
thích:
(1)
Kích: Vũ khí cổ sử dụng
hữu hiệu hơn kiếm, có hai chạc (râu) gây sát
thương.
(2)
Hổ
môn: Tên cửa ải xung yếu
của Trung quốc, nơi nổ ra chiến tranh nha
phiến năm 1840.
|