VẤN ĐỀ CHÚ THÍCH

 

TRONG VIỆC DỊCH THƠ  CAO BÁ QUÁT

 

China Beach

 

 

 

 

 

 

Hơn nửa thế kỷ về trước tại Pháp, trong một cuộc hội thảo về dạy thơ ở nhà trường, có nhà giáo nọ đă kịch liệt phản đối việc giảng giải từ ngữ trong thơ với lập luận chắc nịch rằng “thơ là thứ để cảm chứ không phải để hiểu”, cho nên càng phân tích giảng giải từ ngữ càng làm xói ṃn đi khả năng truyền cảm mà bài thơ có được, và như thế, giảng giải từ ngữ chỉ khiến việc dạy và học thơ trở thành vô bổ, phản tác dụng.

 

Ư kiến nọ cho rằng người dạy thơ chỉ nên đọc bài thơ theo một cách nào đó thật diễn cảm, giúp kẻ học thơ nảy sinh được những cảm xúc mà chính người làm thơ đă trăi qua trong khi sáng tác. Nói cách khác, dạy và học thơ là tạo mối tương quan đồng cảm giữa tác giả với đọc giả, và trong việc này, vai tṛ tri thức không thành vấn đề, có cảm được th́ dù không hiểu mô tê ǵ vẫn cứ thấy hay, c̣n không cảm được th́ dẫu có hiểu được thật rốt ráo cũng chả được tích sự ǵ! Giảng giải từ ngữ chỉ là làm cái việc bới bèo ra bọ, đem sợi tóc chẻ làm tư làm tám, “băm nát” thơ ra mất thôi!

 

Phải thành thật thừa nhận ư kiến nọ không hoàn toàn là dở, thậm chí nghe có vẻ như là phương pháp duy nhất đúng, bởi lẽ người đọc thơ mà không đồng cảm được với người làm thơ th́ quả thật là điều bất hạnh tột cùng cho số phận bài thơ và mọi sự dường như chả c̣n ǵ để nói! Tuy nhiên, vấn đề ở đây là đă có nhà giáo nào thử nghiệm phương pháp dạy thơ “hoang tưởng” như thế hay chưa? Và họ đă đạt được kết quả như thế nào trong việc vận dụng phương pháp ấy? Hiện chưa có bản tường tŕnh nghiêm túc nào về kiểu thử nghiệm ấy cả. Khi chưa thử nghiệm để rút tỉa kinh nghiệm th́ lấy ǵ mà vận dụng cho ổn thỏa vào thực tế?

 

Xu hướng duy cảm cực đoan kể trên mặc nhiên cũng phản đối cả sự chú thích  từ ngữ trong công việc in ấn, tức là những duy-cảm-tiên-sinh ấy cũng phóng tay phủ nhận nốt công sức cân nhắc, trau chuốt đến mức “tê điếng làn da” như Hàn Mặc Tử hay “song lệ lưu” như Giả Đảo. Với thái độ như thế e rằng sự cảm thụ chân chính cũng khó h́nh thành được cho tâm hồn, trừ khi người ta vọng tưởng hay tự ám thị như trong truyện cổ tích về chiếc áo siêu tưởng của ông vua khỏa thân nọ!

 

Nếu chỉ cần có cảm xúc là đạt yêu cầu thưởng thức thơ ca chứ không cần thêm điều kiện ǵ khác nữa th́ chắc chắn trên đời này chẳng thể nào xuất hiện được cụm từ “vô tri bất mộ” (không biết th́ không mến), mà đă không mến th́ người ta cũng không hiểu nốt, bởi “cảm” h́nh như nằm ở đâu đó giữa chặng đường đi từ “biết” đến “mến” của tâm hồn. Xin ví dụ một cách thô thiển rằng gă si t́nh nào đó “cảm” một nhan sắc, muốn tiến xa đến hôn nhân để thể hiện cụ thể sự ái mộ th́ trước hết hay ít nhất gă ta cũng cần phải “biết” cái điều sơ đẳng nhất, đấy là thành viên nữ giới hẳn hoi đă (chứ không phải là pêđê) và quá tŕnh t́nh cảm của gă si t́nh ấy phát triển tiệm tiến theo đường một chiều:  biết ==> cảm ==> mến.

 

Vậy nền tảng đích thực để xây dựng sự cảm thụ thơ ca phải là tri thức về từ ngữ. Người ta không thể “cảm” được cái mà ḿnh không hiểu ǵ cả. Trong việc đọc thơ Cao Bá Quát nếu chính văn không được chú thích đầy đủ, cặn kẽ để giúp cho việc hiểu từ ngữ được thông suốt th́ người đọc khó ḷng cảm thụ trọn vẹn.

 

Có người quan niệm chú thích tuy vẫn là cần, nhưng nếu lạm dụng quá mức sẽ che khuất chính văn, làm lu mờ tác phẩm nên cần phải giữ chừng mực nhất định nào đó càng gọn càng tốt. Quan niệm này thoạt nghe có lẽ như nặng ḷng bảo vệ và tôn trọng tác giả, kỳ thực vô h́nh trung đă xóa mờ và ngăn cách tác giả với người đọc, làm cho tác phẩm chẳng c̣n được bao nhiêu lượng và chất, bởi những ǵ không hiểu, đương nhiên người ta coi như nó không có. Với thơ Cao Bá Quát, người đọc có lối “bảo vệ” ấy rất dễ gặp trường hợp phải “coi nó không có” nhiều hơn là việc “thừa nhận nó có”. Điều oái ăm ở đây là chính cái phần “coi như không có” ấy mới thực thụ là những ǵ làm nên tài hoa Cao Bá Quát. Chúng tôi nghĩ rằng không một ai có đủ số lượng từ điển để tra cứu hết chỗ khó hiểu ở thơ ông (đấy là chưa kể có những từ điển chỉ dùng để trang trí cho kiến thức hơn là bổ sung cho kiến thức!)

 

Trong thơ Cao Bá Quát luôn có đa số những từ, những ư, những chữ, những nghĩa rất khác lạ so với những ǵ ta quen gặp ở nhiều tác giả khác (có lẽ đường khoa bảng của ông gặp nhiều trắc trở, phần lớn do đặc điểm này cũng nên!)

 

Để giúp đỡ sự tiếp cận thơ Cao Bá Quát là một cách có hiệu quả cho người đọc, điều tất yếu trong việc giới thiệu thơ họ Cao là nó phải được kèm theo việc chú  thích chu đáo, không chỉ về ư nghĩa của từ ngữ mà c̣n cả về ư nghĩa giữa hai ḍng chữ, tức những ư ở ngoài lời (ư tại ngôn ngoại) mà họ Cao dày công xô đẩy vào thơ của ḿnh nữa.

 

 

Thái Trọng Lai  太重来

Nhà Nghiên Cứu – Đà Nẵng, Việt Nam, 2008

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

*** 投稿電郵請寄 ***

Bài vở & h́nh ảnh xin gởi về Ban Phụ Trách KHAIMINH.ORG

 

VanNgheGiaiTri@KhaiMinh.org

 

 

 

啓明网站  |  Copyright ©  2009  KHAIMINH.ORG  |  Website Disclaimer