Phiên
âm:
BẠC MỘ TƯ GIA
Thành
thượng đống vân thiên lư âm,
Lương
viên hoa liễu mạc trầm trầm.
Cao
đường lưỡng xứ tư nhi lệ,
Bạc
hoạn tam xuân cảm cựu tâm.
Đối
tháp bần thê phanh Bắc mính,
Xao môn
tiểu nữ lộng Nam âm.
Bang
gia hữu đạo tri hà dụng,
Nhất
bệnh sa đà tuế tự thâm.
Cao Bá Quát
*
Dịch
nghĩa:
CHIỀU HÔM NHỚ NHÀ
Mây lạnh
trên thành che rợp ngh́n dặm,
Hoa liễu
vườn (bên) cầu trông ch́m ch́m.
Hai chốn
cao đường (1) tuôn lệ nhớ con,
Chức
quan bạc bẽo làm cảm thương cho ḷng cũ
của ba xuân. (2)
Trước
giường vợ nghèo đun chè xanh kiểu Bắc,
Gơ vào
cửa con gái bé chơi điệu Nam. (3)
Nước
nhà có đạo biết dùng cách ǵ đây? (4)
Một
bệnh lây lất dài cả năm.
*
Dịch thơ:
Ngh́n dặm mây che khuất lạnh thành,
Bên cầu hoa liễu nhạt tơ mành.
Cao đường hai chốn cùng rơi lệ,
Quan nhỏ chạnh niềm tấc cỏ
xuân.
Vợ túng đun chè xanh lối Bắc,
Con khờ gơ cửa hát câu Nam.
Nước nhà thịnh trị làm ǵ nhỉ?
Bệnh hoạn dây dưa suốt cả
năm.
Thái Trọng Lai 太重来 dịch
Nhà
Nghiên Cứu – Đà Nẵng, Việt Nam, 2008
Chú
thích:
(1)
Hai chốn
cao đường: Cha và
mẹ (câu này cho biết một trong hai người sống
với Cao Bá Đạt, tri huyện Nông cống - Thanh
hóa).
(2)
Ba
xuân: Ba tháng mùa xuân. Ở
đây ám chỉ cha mẹ (ḷng vợ chồng cụ
Cao Cửu Chiếu từng đặt nhiều hi vọng
vào cặp con thông minh)
(3) Điệu Nam:
Có lẽ chỉ điệu Nam
ai, Nam
b́nh nghe thật áo năo, tả tâm trạng công chúa Huyền
Trân về xứ Chiêm thành biền biệt (Nước
non ngh́n dặm ra đi - Tội t́nh chi? - Mượn
màu son phấn - Đền nợ Ô Ly - Cái xuân th́…) rất
hợp cảnh ngộ họ Cao.
(4) Dùng cách ǵ đây: Kẻ sĩ gặp lúc nước
nhà có đạo th́ ra làm quan (xuất) gặp lúc nước
nhà vô đạo th́ ở ẩn (xử). Họ Cao cám cảnh
cho ḿnh “xuất” mà chỉ nhận cảnh đau ốm,
chẳng đền đáp nổi ơn sinh thành xa xôi.
|